Bản án 121/2018/HS-ST ngày 22/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 121/2018/HS-ST NGÀY 22/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 8 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 131/2018/TLST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 139/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn L, tên gọi khác: Không có, sinh ngày 07 tháng 01 năm 1988 tại Lạng Sơn. Nơi cư trú: Ngõ Số 164, đường K 1, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1956 và con bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1959; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L từ ngày 11/6/2018 đến nay. Có mặt.

Người chứng kiến: Ông Ninh Dẩu H, sinh năm 1955

Địa chỉ: Số 47, đường S, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 15 phút ngày 11/6/2018, tại khu vực cổng Chợ đêm I, đường Đ, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Tổ công tác Công an phường V, thành phố L phát hiện một nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội về ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra phát hiện trong lòng bàn tay trái của nam thanh niên có 01 gói giấy nhỏ màu vàng, bên trong có 02 gói giấy nhỏ màu trắng có chứa chất bột màu trắng, nghi là ma túy. Nam thanh niên khai tên: Nguyễn L, sinh ngày 07/01/1988, trú tại số 164, đường K 1, phường C, thành phố L. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phong: 02 gói chất bột màu trắng,02 bơm kim tiêm, 02 ống Novocain, 01 ĐTGĐ Huawei mầu đen, 01 xe mô tô Dylan màu trắng BKS 12F7- 0589 và đưa đối tượng về trụ sở công an làm việc.

Tại Kết luận giám định số 221/KL-PC54 ngày 14/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có tổng khổi lượng 0,107 gam (đã trừ bì).

Tại bản cáo trạng số: 132/KSĐT, ngày 24/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáoNguyễn L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn L khai nhận: Số chất bột màu trắng bị thu giữ là ma túy mà trước đó khoảng 14h00' ngày 11/6/2018 L gọi điện thoại cho một người tên D (không rõ tên tuổi, địa chỉ) nhờ mua ma túy hộ, D đồng ý và hẹn gặp L tại quán nước ở gần cổng chợ đêm I, phường V, thành phố L, L điều khiển xe mô tô Dylan màu trắng BKS 12F7-0589 đến chỗ hẹn, đến nơi L đưa D 220.000đ, trong đó 200.000đ để mua ma túy, 20.000đ để trả công. D đi khoảng 15 phút, sau đó quay lại quán nước đưa cho L 02 gói ma túy được gói trong giấy vàng của bao thuốc lá, sau đó D đi đâu không rõ, L cầm ma túy trong lòng bàn tay trái đi ra lấy xe để đi tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị xử phạt bị cáo: Nguyễn L từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có điều kiện thi hành.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma túy) sau giám định; 02 bơm kim tiêm; 02 ống Novocain.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawei vỏ màu đen (số IMEI 1: 867907030053472; số IMEI 2: 867907030079485) cũ đã qua sử dụng.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như cáo trạng truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Nguyễn L là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý Nhà nước về việc cất giữ chất ma túy, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện , vì vậy hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nêu trên còn phải xem xét những yếu tố liên quan đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các yếu tố khác có liên quan của bị cáo, trên cơ sở xem xét lời đề nghị, luận tội của Viện kiểm sát, cụ thể:

[5] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn L là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; không có tình tiết tăng nặng theo Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[7] Từ những phân tích như trên Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo Nguyễn L không có tình tiết tăng nặng và được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ, khối lượng ma túy tàng trữ trên mức khởi điểm để truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, vì vậy cần xử bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng để thi hành.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma túy) sau giám định; 02 bơm kim tiêm; 02 ống Novocain. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawei vỏ màu đen (số IMEI 1: 867907030053472; số IMEI 2: 867907030079485) cũ đã qua sử dụng.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với đối tượng tên Định mua ma túy hộ Nguyễn L vào ngày 11/6/2018, bị cáo do không rõ tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh điều tra làm rõ nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xử lý trong vụ án này.

[11] Đối với chiếc xe máy Dylan màu sơn trắng, BKS 12F7-0589, Cơ quan điều tra đã trả ông Nguyễn Văn Cường (bố đẻ của Nguyễn L), ông Nguyễn Văn Cường không biết việc Nguyễn L dùng xe đi mua ma túy, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét xử lý.

[12] Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn L 15 (Mười lăm) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 11/6/2018;

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật (chất ma túy) sau giám định; 02 bơm kim tiêm; 02 ống Novocain.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Huawei vỏ màu đen (số IMEI 1: 867907030053472; số IMEI 2: 867907030079485) cũ đã qua sử dụng.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24 tháng 7 năm 2018).

4. Án phí: Buộc bị cáo Nguyễn L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 121/2018/HS-ST ngày 22/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:121/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về