TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 120/2022/HS-ST NGÀY 18/11/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 18 tháng 11 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 156/2022/TLST-HS ngày 31/10/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 152/2022/QĐXXST-HS ngày 04/11/2022, đối với các bị cáo:
1. Lê Thanh B (S), sinh năm: 2000 tại Khánh Hòa; Nơi cư trú: Thôn Vĩnh X, xã Vĩnh T1, thành phố N2, tỉnh Khánh H4; Nghề nghiệp: Thợ sắt; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh X, sinh năm 1981 và bà Trần Thị Minh H5, sinh năm 1982; có vợ Trần Hoàng Yến N1, sinh năm 1999 (không đăng ký kết hôn) và con Trần Hoàng Minh T2, sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/9/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Khánh Hòa, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa : Luật sư Nguyễn Thị Thu H1 – Văn phòng luật sư Khả N, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh H4. (Có mặt) 2. Phạm Thành N (Nam N), sinh năm: 1994 tại Khánh Hòa; Nơi cư trú:
Tổ 14 Ngọc E, phường Ngọc H5, thành phố N2, tỉnh Khánh H4; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đình Đ1, sinh năm 1959 và bà Lưu Thị Tr1, sinh năm 1963; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 03/11/2010 bị Công an phường Phước H6, N2 lập biên bản xử lý vi phạm về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Ngày 04/11/2010 bị Công an phường Phước H6, N2 lập biên bản xử lý vi phạm về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”; Ngày 03/12/2010 bị UBND phường Phước H6, N2 ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thời gian 03 tháng; Ngày 18/12/2010 bị Công an phường Phước H6, N2 lập biên bản xử lý vi phạm về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Ngày 21/02/2011 bị UBND thành phố N2 ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, thời gian 24 tháng; Ngày 06/11/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố N2 xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành xong ngày 08/3/2016; Bản án số 18/2022/HSPT ngày 18/02/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh H4 xử phạt 01 năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/9/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Khánh H4, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
N gư ời bào c hữ a c ho bị c áo Phạm Thà nh N :
1. Luật sư Nguyễn Thị Thu H1 – Văn phòng luật sư Khả N, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh H4. (Có mặt) 2. Luật sư Lê Văn T – Văn phòng luật sư Lê Văn T & Cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Khánh H4. (Có mặt) * N gườ i b ị hạ i : Anh Trần Quốc H, sinh năm 2002 Địa chỉ: A3/28 Chung cư A, KDC Miếu G, phường 3, Quận Bình I, thành phố Hồ Chí M. (Có mặt) * N gư ời làm c hứ ng :
1. Trần Anh B1;
Nơi ĐKNKTT: Thôn Đống Đ1, xã Ninh S, thị xã Ninh H4, Khánh H4.
Chỗ ở hiện nay: Thôn Vĩnh X, Đồng R, xã Vĩnh T1, N2. (Vắng mặt) 2. Nguyễn Thị Tú A;
Nơi ĐKNKTT: Thôn Đống Đ1, xã Ninh S, thị xã Ninh H4, Khánh H4.
Chỗ ở hiện nay: 46A Cầu B, xã Vĩnh T2, N2, Khánh H4. (Vắng mặt) 3. Nguyễn Hoàng N;
Nơi ĐKNKTT: Thôn Nông Tr2, xã Ninh S, thị xã Ninh H4, Khánh H4.
Chỗ ở hiện nay: Phòng 12A Tầng 18 tòa B2 Chung cư Hoàng Q, xã Vĩnh H4, Tp. N2, tỉnh Khánh H4. (Vắng mặt) 4. Lê Nguyễn Hoài T2;
Trú tại: Tổ 6 Phước L2, phường Phước H6, N2, Khánh H4. (Vắng mặt) 5. Phạm Thị L Nơi ĐKNKTT: Thôn Lam S1xã Ninh S, thị xã Ninh H4, tỉnh Khánh H4.
Chỗ ở hiện nay: 105/24 Lương Định C2, phường Ngọc H6, Tp. N2, Khánh H4.
(Vắng mặt) 6. Nguyễn Hữu D Nơi ĐKNKTT: Thôn Nghĩa L2, phường Cam N3, Tp. Cam R, Khánh H4.
Chỗ ở hiện nay: 07 Phúc S1, tổ 16, phườngVĩnh P, Tp. N2, tỉnh Khánh H4. (Vắng mặt) 7. Nguyễn Hoa T3 Nơi ĐKNKTT: Thôn Tân X, xã Ninh X, thị xã Ninh H4, Khánh H4.
Chỗ ở hiện nay: 46 đường Cầu B, xã Vĩnh T2, N2. (Vắng mặt) 8. Trần Hoàng Yến N1 Nơi ĐKNKTT: Thôn Linh V, phường Cam L, Tp. Cam R, Khánh H4.
Chỗ ở hiện nay: Thôn Vĩnh X, xã Vĩnh T1, N2, Khánh H4. (Có mặt) 9. Đặng Xuân Tr Trú tại: Thôn Tú C3, xã Vạn B, huyện Vạn N4, Khánh H4. (Vắng mặt) 10. Võ Thị Ngọc H2 Nơi ĐKNKTT: Thôn Sơn L1, xã Ninh A, thị xã Ninh H4, Khánh H4.
Chỗ ở hiện nay: 120/34 Nguyễn Thiện T7, phường Lộc T6, Tp. N2, Khánh H4. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 00 giờ 45 phút ngày 13/4/2021, trong lúc ngồi chơi tại vũ trường L, địa chỉ: số 42 Trần P, phường Lộc T6, thành phố N2, tỉnh Khánh H4, Lê Thanh B (S), sinh năm: 2000; Trú tại: Vĩnh X, Vĩnh T1, N2, Khánh H4 cùng Phạm Thành N (Nam Nhóc), sinh năm: 1994; Trú tại: Tổ 14 Ngọc E, Ngọc H5, N2 có mâu thuẫn với Trần Quốc H, sinh năm: 2002; Trú tại A3/28 Chung cư A, KDC Miếu G, Phường 3, Quận Bình I, TP Hồ Chí M (Chỗ ở: đường Cầu Bè, Vĩnh T2, Nha Trang) đang ngồi chơi tại vũ trường L, giữa H và B xảy ra xô xát với nhau nhưng được bảo vệ vũ trường can ngăn nên hai bên dừng lại. Sau đó, nhóm B tính tiền ra về. Đến khoảng 01 giờ 30 phút cùng ngày, B rủ N quay lại để tìm H đánh trả thù thì N đồng ý. N điều khiển xe máy chở B về nhà của B tại Vĩnh X, Vĩnh T1 để lấy một cây “đao tự chế” dài khoảng 50cm. Khi N chở B đến trước vũ trường L thì N ở ngoài đợi, còn B một mình cầm cây “đao” đi vào bên trong vũ trường tìm H. Khi B mở cửa vào, thấy H đang ngồi ở bàn Vip 14 quay lưng về hướng cửa ra vào thì B đứng phía sau dùng “đao tự chế” bằng tay phải chém một nhát từ trên xuống, từ trái qua phải trúng vào vùng sau cổ của H, B tiếp tục chém một nhát nữa thì do H giật mình cúi đầu về phía trước nên trúng vào khuỷu tay trái. Sau đó, B cầm dao tự chế chỉ về phía H nói “tao đánh cho mày nhớ”, thì nhóm bạn của H đứng lên, B cầm “đao tự chế” chạy ra ngoài được N chờ sẵn chở đi đến Karaoke C. B tự lấy xe đi về và vứt dao tự chế xuống khu vực cầu Phong C1. Sáng hôm sau, B và N nghe tin tức thì bỏ trốn. Hiện hung khí của vụ án vẫn chưa truy tìm được.
Tại Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số 158/TgT-TTPY ngày 06/5/2021 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Khánh H4 kết luận thương tích của Trần Quốc H:
- Vùng cổ sau có 01 vết sẹo kích thước 09cm x 0.2cm; Tỷ lệ thương tật:
04% - Vùng khuỷu tay trái có 01 vết sẹo kích thước 1.5cm x 0.3cm. Tỷ lệ thương tật: 01% - Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 5%.
Theo Cáo trạng số 103/CT-VKSKH-P1 ngày 12 tháng 9 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã truy tố các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh H4 vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, Điều 54, khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự 2015; xử phạt bị cáo Lê Thanh B từ 06 (sáu) năm đến 07 (bảy) năm tù, bị cáo Phạm Thành N từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N đã bồi thường số tiền 110.000.000đ (một trăm mười triệu đồng) cho người bị hại Trần Quốc H. Tại phiên tòa ông Trần Quốc H không yêu cầu các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Vật chứng: Bị cáo Lê Thanh B đã vứt dao tự chế xuống khu vực cầu Phong C1 nên không truy thu được vật chứng của vụ án.
Luật sư Nguyễn Thị Thu H1 bào chữa cho các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N phát biểu: hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015. Luật sư H1 thống nhất với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
Luật sư Lê Văn T bào chữa cho bị cáo Phạm Thành N phát biểu: hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015. Luật sư T thống nhất với ý kiến luận tội của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa. Bị cáo N đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại và người bị hại đã có đơn xin bãi nại nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Phạm Thành N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Các người làm chứng Trần Anh B1, Nguyễn Thị Tú A, Nguyễn Hoàng N, Lê Nguyễn Hoài T2, Phạm Thị L, Nguyễn Hữu D, Nguyễn Hoa T3, Đặng Xuân Tr và Võ Thị Ngọc H2 vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã có lời khai ở Cơ quan điều tra thì chủ tọa phiên tòa công bố những lời khai đó. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo như nội dung bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã truy tố đối với các bị cáo. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, các người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã được xét hỏi tại phiên tòa.
[3] Do mâu thuẫn nhỏ trong lúc vui chơi tại Vũ trường L N2 giữa bị cáo Lê Thanh B với người bị hại Trần Quốc H. Bị cáo Lê Thanh B đã rủ bị cáo Phạm Thành N chở đi từ Karaoke C đường Vân Đồn, thành phố N2 về nhà tại thôn Vĩnh X, xã Vĩnh T1, thành phố N2 để lấy hung khí là đao tự chế, sau đó chở xuống lại Vũ trường L N2 để đánh Trần Quốc H thì bị cáo Phạm Thành N đồng ý. Bị cáo Lê Thanh B là người trực tiếp sử dụng một cây “đao tự chế” dài khoảng 50cm (hung khí nguy hiểm) bất ngờ từ phía sau chém 02 nhát liên tiếp vào vùng cổ của Trần Quốc H (vùng trọng yếu của cơ thể), trong đó 01 nhát trúng vào vùng cổ sau đầu và 01 nhát do Trần Quốc H giật mình cuối đầu về phía trước đồng thời đứng lên nên trúng khủy tay trái với tỷ lệ: Vùng cổ sau có 01 vết sẹo kích thước 09cm x 0.2cm; Tỷ lệ thương tật: 04%. Vùng khuỷu tay trái có 01 vết sẹo kích thước 1.5cm x 0.3cm; Tỷ lệ thương tật: 01%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của Trần Quốc H là: 05%. Hành vi của các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 và thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt được quy định tại Điều 15 của Bộ luật hình sự năm 2015.
[4] Do đó, Cáo trạng số 103/CT-VKSKH-P1 ngày 12 tháng 9 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh H4 đã truy tố các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[5] Xét vai trò phạm tội và mức độ chịu trách nhiệm hình sự của từng bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn trong đó bị cáo Lê Thanh B là người khởi xướng việc gây thương tích cho anh Trần Quốc H và bị cáo Phạm Thành N là người giúp sức rất tích cực cho bị cáo Lê Thanh B để thực hiện hành vi của bị cáo Bình. Do vậy, bị cáo Lê Thanh B phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn so với bị cáo Phạm Thành N nhưng do bị cáo Phạm Thành N có nhiều nhân thân đặc biệt xấu. Do đó, các bị cáo Lê Thanh B, Phạm Thành N phải chịu trách nhiệm hình sự ngang nhau là phù hợp với các quy định của pháp luật.
[6] Đánh giá tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Do đó, cần phải xử phạt các bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc mới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.
[6] Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại; người bị hại đã có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử nghĩ nên xem xét và giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 để bị cáo an tâm cải tạo sớm trở thành công dân tốt và có ích cho xã hội.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N đã bồi thường số tiền 110.000.000đ (một trăm mười triệu đồng) cho người bị hại Trần Quốc H. Tại phiên tòa ông Trần Quốc H không yêu cầu các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về xử lý vật chứng: Bị cáo Lê Thanh B đã vứt dao tự chế xuống khu vực cầu Phong C1 nên không truy thu được vật chứng của vụ án.
[9] Về án phí: Các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, khoản 3 Điều 57, khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự 2015; Điều 136, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N.
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
* Xử phạt :
1. Bị cáo Lê Thanh B 09 (chín) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam 07/9/2021.
2. Bị cáo Phạm Thành N 09 (chín) năm tù về tội “Giết người”. Tổng hợp với hình phạt 01 (một) năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ” của Bản án số 18/2022/HSPT ngày 18/02/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Buộc bị cáo Phạm Thành N phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giam 08/9/2021.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Trần Quốc H không có yêu cầu gì thêm về vấn đề bồi thường đối với các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Các bị cáo Lê Thanh B và Phạm Thành N mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Bản án 120/2022/HS-ST về tội giết người
Số hiệu: | 120/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về