Bản án 120/2021/HNGĐ-ST ngày 24/06/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TT, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 120/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TT xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 35/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021 về Tranh chấp Hôn nhân và gia đình.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXX-ST ngày 19 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1987; có mặt

 - Bị đơn: Chị Phùng Thị H, sinh năm 1988; vắng mặt.

Cùng điạ chỉ: Thôn LL, xã YT, huyện TT, Thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/9/2020 cùng các bản khai ngày 09/3/2021 và trong quá trình tham gia tố tụng tại Toà án của nguyên đơn là anh Nguyễn Văn Q trình bày thì: Anh và chị Phùng Thị H kết hôn với nhau vào năm 2011, có đăng ký kết hôn ngày 21/11/2011 tại Ủy ban nhân dân xã YT, huyện TT, thành phố Hà Nội trên cơ sở tự nguyện. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống tại nhà ngoại chị H. Vợ chồng sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không hợp nhau về việc làm ăn kinh tế. Anh và chị H mỗi người làm việc một nơi, chị H không hề quan tâm đến hạnh phúc gia đình chồng con, quan hệ nam nữ không lành mạnh. Anh đã khuyên bảo nhưng chị H không thay đổi. Sau khi con trai được 4 tuổi thì vợ chồng lại về xã YT sinh sống. Nhưng kể từ khi về xã YT, tình cảm vợ chồng không cải thiện mà càng mẫu thuẫn trầm trọng hơn chồng thường xuyên cãi nhau, ngày 19/9/2019 chị H đã làm đơn gửi Tòa án đề nghị công nhận thuận tình ly hôn và yêu cầu tôi ký vào đơn, nhưng sau đó chị H đã bỏ nhà đi thỉnh thoảng có về thăm con rồi lại đi vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa. Nên anh đơn phương làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Văn Ngọc Q, sinh ngày 12/10/2015. Hiện cháu đang ở với anh, anh có nguyện vọng được nuôi cháu và không yêu cầu chị H cấp dưỡng.

Về tài sản, công sức nợ chung: Anh không yêu cầu giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện TT đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng từ giai đoạn thụ lý vụ án đối với bị đơn là chị Phùng Thị H. Tuy nhiên chị H không đến Tòa và cũng không có mặt nên không ghi được ý kiến của chị H.

Tại phiên tòa anh Q giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Chị H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện TT phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: Tòa án nhân dân huyện TT thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, đúng pháp luật. Việc xác định quan hệ pháp luật và tư cách người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ đầy đủ, thủ tục hòa giải đã được tiến hành; thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo, việc chuyển hồ sơ, cấp tống đạt các văn bản tố tụng đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 57, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Nguyễn Văn Q về việc xin ly hôn chị Phùng Thị H; về án phí anh Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tòa án nhân dân huyện TT đã thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện của anh Nguyễn Văn Q. Bị đơn cư trú trên địa bàn huyện TT, thành phố Hà Nội. Do vậy Toà án nhân dân huyện TT thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền quy định tại Điều 28, Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn là chị Phùng Thị H, Tòa án đã tiến hành niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng như giấy triệu tập; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều 177 và Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự. Nhưng chị H vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do chính đáng là vi phạm về nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

2.1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Q, chị H tự nguyện tìm hiều và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã YT, huyện TT, Thành phố Hà Nội ngày 21/11/2011. Do vậy quan hệ hôn nhân giữa anh Q, chị H được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Mặc dù không ghi được ý kiến của chị H xong qua lời trình bày của anh Q cũng như lời trình bày của bà Đinh Thị H là mẹ đẻ của chị H, tại Biên bản ghi ý kiến ngày 05/4/2021, bà H trình bày chị H là con đẻ của bà kết hôn với anh Q vào năm 2011, sau khi cưới vợ chồng ở xã TX được 4 năm thì vợ chồng về ở cùng với bà tại thôn CL, xã CĐ, thị xã Sơn Tây, vợ chồng sống hạnh phúc và có 01 con chung không có điều tiếng gì, khi cháu Q lên 4 tuổi thì vợ chồng lại về xã YT ở, sau khi về YT thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng trong chuyện làm ăn và kinh tế, đến năm 2019 thì vợ chồng sống ly thân chị H cũng không về nhà bà ở, thỉnh thoảng chị có gọi điện về cho bà nói là hiện tại phải đi làm ăn xa, nhưng không nói cụ thể đi đâu nên gia đình không biết. Nay anh Q làm đơn xin ly hôn bà đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của anh chị. Mặt khác ngày 19/9/2019 chị H cũng đã làm đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự về việc thuận tình ly hôn gửi Tòa án đề nghị công nhận thuận tình ly hôn nhưng sau đó bỏ đi, tòa đã triệu tập không có mặt.

Chứng tỏ chị H và anh Q đã sống ly thân với nhau từ năm 2019 không còn quan tâm đến nhau nữa. Do vậy có thể khẳng định tình cảm giữa anh Q và chị H không còn, đời sống chung không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét thấy cần cho ly hôn để hai bên sớm ổn định cuộc sống.

2.2. Về con chung: Tại biên bản ghi lời khai và biên bản xác minh tại xã YT ngày 21/3/2021, xác định anh Q, chị H có 01 con chung là Nguyễn Văn Ngọc Q, sinh ngày 12/10/2015. Anh Q có nguyện vọng xin được nuôi cháu. Mặt khác hiện tại chị H vắng mặt tại địa phương, không rõ đi đâu, khi nào trở về. Cháu Q vẫn đang ở với anh Q.

Do vậy để đảm bảo ổn định việc nuôi dưỡng và học hành của cháu nên cần giao cháu cho anh Q tiếp tục nuôi dưỡng.

2.3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Vì anh Q không yêu cầu cấp dưỡng, nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị H trong thời gian anh Q không yêu cầu.

2.3. Về tài sản, công sức nợ chung: Anh Q không yêu cầu giải quyết. Chị H không có văn bản trình bày ý kiến về việc này nên không đặt ra xem xét. Nếu sau này các bên có yêu cầu sẽ giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

[3] Về án phí: Anh Nguyễn Văn Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 243, 245, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1. Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của anh Nguyễn Văn Q về việc xin ly hôn.

1.1. Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Q được ly hôn chị Phùng Thị H.

1.2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn Ngọc Q, sinh ngày 12/10/2015 cho anh Q trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, hoặc đến khi có quyết định thay đổi khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

1.3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Vì anh Q không yêu cầu cấp dưỡng, nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị Phùng Thị H trong thời gian anh Q không yêu cầu.

Chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được cản trở.

1.4. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu giải quyết.

2. Về án phí: Anh Nguyễn Văn Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lại thu số 0011928 ngày 04 tháng 3 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TT, thành phố Hà Nội.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 120/2021/HNGĐ-ST ngày 24/06/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:120/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về