TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 120/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25/11/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 121/2020/TLST-HS ngày 30/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2020/QĐXXST-HS ngày 11/11/2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Đức Q sinh ngày 24/4/1970, tại thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 519 tập thể Tàu Quốc, xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:
Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức Minh và bà Lại Thị Thủy; chưa có vợ con; tiền án: Bản án số 21 ngày 07/3/1989 Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân; Bản án số 141 ngày 15/5/1989 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/02/1989; Bản án số 259/HSST ngày 21/8/1991 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân, tổng hợp hình phạt với bản án số 21 ngày 07/3/1989 là 03 năm tù, thời hạn chấp hình phạt tù từ ngày 03/4/1991; Bản án số 200 ngày 25/11/1995 Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử 18 tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng; Bản án số 324/HSST ngày 05/9/1997 Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản công dân; Bản án số 363/HSST này 28/11/2006 Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, phạt bổ sung 5.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước, bị cáo phải nộp 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/4/2012; nộp 50.000 đồng án phí ngày 26/11/2010, quyết định số 51/2016 ngày 21/10/2016 của Tòa án nhân dân huyện An Dương miễn nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách Nhà nước cho bị cáo - đã được xóa án tích); tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 24/7/2020 đến ngày 29/7/2020 chuyển tạm giam. Ngày 07/8/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn Tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh (do phải cấp cứu và điều trị tại bệnh viện do bị giãn bể thận và niệu quản trái, cần tiếp tục điều trị tích cực); có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 25 ngày 24/7/2020, Tổ công tác Đội 3 thuộc Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 1- Bộ tư lệnh Cảnh sát biển kết hợp với Công an huyện Thủy Nguyên và Công an xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên làm nhiệm vụ tại đường tỉnh lộ 359 thuộc địa phân thôn 5, xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng phát hiện Nguyễn Đức Q có biểu hiện nghi vấn cất giấu trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra, lực lượng Công an thu giữ tại túi quần phía trước bên phải Nguyễn Đức Q đang mặc 01 túi nilon màu trắng, kích thước 3cm x 6cm bên trong có 08 gói giấy màu vàng đều chứa chất bột màu trắng (nghi là chất ma túy); tạm giữ của Nguyễn Đức Q 01 mô tô nhãn hiệu Jupiter màu sơn đen bạc, biển kiểm soát 15D1-000.04. Công an đã đưa Q cùng vật chứng về trụ sở giải quyết.
Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đức Q cơ quan điều tra không phát hiện đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.
Kết luận giám định số 457/KL Đ-MT ngày 26/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ trên người Q là ma túy loại Heroine, có khối lượng 0,60 gam.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn Đức Q khai: Do nghiện chất ma túy, loại Heroine nên Q thường đi mua ma túy về sử dụng. Khoảng 11 giờ ngày 24/7/2020, Q điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 15D1-000.04 đến khu vực đường tàu nội thành Hải Phòng để mua ma túy. Tại đây Q gặp và mua của một người phụ nữ không biết biết được 08 gói ma túy, loại Heroine đựng trong 01 túi nilon màu trắng hết số tiền 800.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Q cất giấu vào túi quần phía trước bên phải rồi điều khiển xe sang huyện Thủy Nguyên để giải quyết công việc cá nhân. Khi Q điều khiển xe mô tô đến khu vực chân cầu Bính thuộc địa phận thôn 5, xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt giữ, thu giữ vật chứng như trên.
Vật chứng gồm: 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên quản lý.
Tại phiên tòa bị cáo trình bày thống nhất về hành vi như đã nêu trên, đồng ý với nội dung Kết luận giám định, không có ý kiến hay khiếu nại gì.
Bản Cáo trạng số 129/2020/CT-VKS ngày 30/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố Nguyễn Đức Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (BLHS). Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù, trừ cho bị cáo thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của BLHS và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định; bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong quá trình tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, của người được giao thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với vụ án trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và những người khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì nên các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Ngày ngày 26/5/2020 bị cáo Q đã cất giấu 0,60 gam ma túy loại Heroine để sử dụng. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ nên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với hành vi đã thực hiện. Với hành vi nêu trên, bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS. Các chứng cứ xác định bị cáo không có tội được loại trừ.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm pháp luật về phòng chống ma túy, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và sức khỏe của bản thân. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nhưng đã nhiều lần bị đưa ra xét xử thể hiện nhân thân xấu; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có mẹ được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến do có thành tích trong kháng chiến chống Mỹ là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS.
[4] Về hình phạt: Với phân tích trên, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và xử phạt bị cáo mức án bằng mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp; trừ cho bị cáo thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam. Tại khoản 5 Điều 249 của BLHS quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên không phạt tiền bị cáo.
[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định là vật chứng vụ án, cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về những vấn đề khác: Vụ án này không có dấu hiệu của việc bỏ lọt tội phạm hoặc hành vi phạm tội mới nên Hội đồng xét xử không phân tích chứng cứ để xem xét việc khởi tố vụ án hay yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 15D1-000.04, tài liệu điều tra xác định thuộc sở hữu hợp pháp của anh Nguyễn Đức Vinh, sinh năm 1975 ở xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng (anh Vinh là em trai Q). Anh Vinh cho Q mượn xe mô tô để đi lại nhưng không biết việc Q sử dụng xe vào việc đi mua ma túy nên Công an huyện Thủy Nguyên không xử lý và trả lại xe mô tô trên cho anh Vinh là phù hợp pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong phạm vi và thời hạn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Nguyễn Đức Q 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày thi hành án, trừ cho bị cáo thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam là 15 ngày (từ ngày 24/7/2020 đến ngày 07/8/2020).
Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Nguyễn Đức Q phải chịu 200.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định (chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 30/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng).
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 120/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 120/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về