TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 120/2019/HS-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 114/2019/HSST ngày 27 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2019/QĐXX ngày 04/10/2019, đối với bị cáo:
Đoàn Văn D, sinh năm 1977 tại Vĩnh Phúc; trú tại: Thôn Tam Hà, xã T, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn D1 (đã chết) và bà Phạm Thị H (đã chết); có vợ là Nguyễn Thị L và có 02 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/7/2019 đến nay, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 01/7/2019, tổ Công tác Công an phường N, thành phố V làm nhiệm vụ tại đường L, khu hành chính 13, phường N, thành phố V phát hiện Đoàn Văn D có biểu hiện liên quan đến ma tuý. Tổ công tác đã kiểm tra, phát hiện và thu giữ tại trong miệng của D 01 túi nilon bên trong có 05 gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng (D khai là ma tuý Heroin, D mua để sử dụng cho bản thân), được niêm phong ký hiệu A1 và tạm giữ của D 30.000đ.
Tại bản kết luận giám định số 1297/KL-GĐ ngày 05/7/2019 của Phòng kỹ hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi đến giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroin. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,8298g (không kể bao bì). Khối lượng Heroin trong 0,8298g mẫu là 0,2058g. Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: A1= 0,7061g mẫu và toàn bộ bao gói, được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả”.
Cáo trạng số: 120/CT-VKS-VY ngày 27/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Đoàn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa bị cáo Đoàn Văn D khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đoàn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù. Đề nghị áp dụng khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 để giải quyết vật chứng của vụ án. Không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
Bị cáo Đoàn Văn D không bào chữa và tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận của bị cáo Đoàn Văn D tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội; phù hợp với Biên bản sự việc; phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 01/7/2019, tổ công tác Công an phường N, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc, làm nhiệm vụ tại Khu 13, phường N, thành phố V thì phát hiện Đoàn Văn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng cho bản thân. Thu giữ của Đoàn Văn D 01 túi nilon bên trong có 05 gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng, qua giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroin, trọng lượng Heroin trong mẫu vật giám định là 0,2058g.
Khối lượng ma tuý Heroin mà Đoàn Văn D tàng trữ là 0,2058g, do vậy hành vi của Đoàn Văn D đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Nội dung điều luật quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy…thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:… c, Heroin…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý xã hội được pháp luật bảo vệ. Heroin là một trong số những chất ma tuý gây nghiện nguy hiểm do Nhà nước ta độc quyền quản lý, Nhà nước nghiêm cấm các hành vi mua bán, sản xuất, tàng trữ,…trái phép chất ma tuý vì tính chất nguy hiểm, nghiêm trọng của nó. Tàng trữ trái phép chất ma túy là tiền đề để từ đó hành vi mua bán hay sử dụng trái phép chất ma túy được thực hiện, từ đó góp phần tạo nên những người nghiện ma túy. Nghiện ma tuý làm con người bị lệ thuộc vào ma tuý, nhiều khi không làm chủ được bản thân, kinh tế bị ảnh hưởng; nó là một trong những nguyên nhân gây lây nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV, và từ đó có thể nảy sinh ra nhiều tệ nạn xã hội cũng như hành vi phạm tội khác như trộm cắp, cướp giật, lừa đảo chiếm đoạt tài sản …, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Mặc dù, Nhà nước ta có những quy định để xử lý nghiêm khắc đối với hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma tuý, tuy nhiên hiện nay loại tội phạm này vẫn chưa giảm, mà diễn biến ngày càng phức tạp, tinh vi làm quần chúng nhân dân phẫn nộ, bất bình.
Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo trong vụ án này thấy rằng: Bị cáo Đoàn Văn D là đối tượng nghiện, mua ma túy để sử dụng. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng vì nhu cầu sử dụng ma túy của mình vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, do vậy Hội đồng xét xử thấy cần xử bị cáo mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng cân nhắc đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đó là: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết nào. Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tù nghiêm minh trên mức khởi điểm của khung hình phạt như đại diện Đại diện viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp.
[3] Về đối tượng liên quan và vật chứng:
Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ, Đoàn Văn D khai nhận: Khoảng hơn 12 giờ trưa ngày 01/7/2019, D mua của người phụ nữ, không biết họ tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực ngã ba giao nhau giữa đường Đầm Vạc và đường Trần Quốc Tuấn thuộc địa phận phường ĐĐ, thành phố V với giá 800.000đ. Sau khi mua được ma túy, D đi đến đường L thuộc khu hành chính 13, phường N, thành phố V thì gặp tổ công tác của công an phường N, D cho gói ma túy vừa mua và mồm cất giấu thì bị phát hiện, tạm giữ.
Đối với người phụ nữ Đoàn Văn D khai bán ma tuý Heroin cho D: Theo D khai đó là người khoảng 40 tuổi, D không biết họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, nhưng chưa xác định được là ai. Ngoài lời khai của D không có căn cứ nào khác để xác xác minh, xác định được nhân thân người phụ nữ đã bán ma tuý cho D. Do vậy, Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra xử lý.
Số ma túy và toàn bộ bao gói còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.
Số tiền 30.000đ thu giữ của Đoàn Văn D không liên quan đế hành vi phạm tội, cần trả cho D nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.
[5] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đoàn Văn D: 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 01/7/2019.
Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,7061gam ma túy (Heroin) và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả” hoàn lại sau giám định. Trả lại cho Đoàn Văn D 30.000đ nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
(Vật chứng có đặc điểm theo như biên bản giao nhận vật chứng ngày 01 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V).
Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Đoàn Văn D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 120/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 120/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về