TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 120/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2019 VỀ XIN LY HÔN
Trong ngày 20 tháng 6 năm 2019, Tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau. Xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 359/ 2019/ HNGĐ-ST ngày 23tháng 4 năm 2019 về việc yêu cầu xin ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 372/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Hồ Thị Mỹ T, sinh năm 1995 (có mặt)
Địa chỉ cư trú: Xóm 9, xã M, huyện P, tỉnh Bình Thuận.
-Bị đơn: Anh Hồ Văn T, sinh năm 1993 (vắng mặt)
Địa chỉ cư trú: Số 188, hẽm 118, đường L, khóm 6, phường 1, thành phố M, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Chị Nguyễn Hồ Thị Mỹ T trình bày tại đơn khởi kiện và phiên tòa như sau:
Về hôn nhân: Vào năm 2015 chị và anh T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện P, tỉnh Bình Thuận. Trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung nên chị và anh T đã ly thân khoảng 04 năm nay. Mặc dù, đã được gia đình hai bên hàn gắn nhưng không thành. Xét thấy, vợ chồng không thể chung sống với nhau được nữa nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh T.
Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung tên Hồ Ngọc H (nữ), sinh ngày 06/01/2017. Hiện con đang sống cùng với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu Hân không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị khai anh chị không có tài sản chung.
Về nợ chung: Chị khai anh chị không có nợ chung và cũng không ai nợ lại.
Đối với anh Hồ Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý và các thông báo để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 14/5/2019, 27/5/2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập để tham gia phiên tòa xét xử vào các ngày 10/6/2019, 20/6/2019 nhưng anh Hồ Văn T vẫn cố tình vắng mặt không có lý do và cũng không gửi văn bản thể hiện ý kiến của mình về nội dung mà chị Nguyễn Hồ Thị Mỹ T đã khởi kiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]Về thủ tục tố tụng: Mặc dù anh Hồ Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập để tham gia xét xử lần thứ hai nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T theo quy định tại các Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung các đương sự tranh chấp được xác định là ly hôn.
[2]Về hôn nhân: Chị T và anh T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện P, tỉnh Bình Thuận theo quy định của pháp luật, nên mối quan hệ hôn nhân của anh chị được pháp luật công nhận và bảo vệ. Lời trình bày của chị T tại phiên tòa do vợ chồng sống không hợp nhau, và có nhiều mâu thuẫn, nên anh chị đã ly thân khoảng 04 năm nay. Nếu Toà án không chấp nhận yêu cầu của chị, thì chị cũng không thể tiếp tục chung sống với anh T. Đồng thời, trong suốt thời gian chị T yêu cầu ly hôn tại Tòa án thì anh T không đến Tòa án để hòa giải cũng như không gửi ý kiến của mình cho Tòa án, điều đó chứng tỏ anh T cũng không có ý thức hàn gắn. Hội đồng xét xử nhận thấy cuộc sống chung giữa chị T và anh T mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt đựơc, hiện chị T và anh T mỗi người đã có cuộc sống riêng, không ai quan tâm chăm sóc ai. Do đó, có cơ sở chấp nhận lời trình bày và yêu cầu của chị T về việc xin ly hôn với anh T.
[3]Về con chung: Chị T và anh T có tên Hồ Ngọc H (nữ), sinh ngày 06/01/2017. Hiện cháu đang sống cùng với chị T. Khi ly hôn chị T yêu cầu được nuôi cháu H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, hiện cháu H chưa được 06 tuổi, trong suốt thời gian ly thân cháu Hân do chị T trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Cho nên, để tránh sự xáo trộn tâm lý và cuộc sống của cháu H nên tiếp tục giao cháu H cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.
Về cấp dưỡng nuôi con, chị T không đặt ra yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.
[4]Về tài sản chung; nợ chung: Chị T xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, và không có nợ chung, cũng như không ai nợ lại anh chị nên không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ các Điều 147, 207, 227, 228, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Hồ Thị Mỹ T về việc xin ly hôn với anh Hồ Văn T.
Về con chung: Tiếp tục giao con chung, tên Hồ Ngọc H (nữ), sinh ngày 06/01/2017 cho chị T trực tiếp nuôi dạy. Không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Anh Hồ Văn T không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc nuôi dạy con chung không ai có quyền ngăn cản.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung và người khác nợ lại: Không có.
Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình: Chị Nguyễn Hồ Thị Mỹ T phải nộp 300.000 đồng, vào ngày 23/4/2019, chị T đã dự nộp tiền tạm ứng án phí là 300.000đ theo biên lai số 0000013 được giữ y, sung vào công quỹ Nhà nước.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Chị T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 120/2019/HNGĐ-ST ngày 20/06/2019 về xin ly hôn
Số hiệu: | 120/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về