Bản án 120/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 120/2018/HS-ST NGÀY 26/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 113/2018/TLST- HS ngày 02 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 113/2018/QĐXXST- HS ngày 12/10/2018, đối với bị cáo: PHẠM NGỌC T, sinh ngày 18/9/1993, tại Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Tổ 16, phường T, thành phố T, tinh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 9/12; dân tộc: Kinh; con ông: Phạm Ngọc Th. và bà Lương Châu G; vợ là Quan Thị Diễm M. (đã ly hôn); con: Chưa có; tiền sự: Không;

Tiền án: Ngày 06/01/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố T. xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, ngày 28/01/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù (Bản án số 02/2017/HSST);

Nhân thân: Ngày 26/8/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố T. xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Cướp giật tài sản, ngày 04/5/2012 bị cáo chấp hành xong án phạt tù (Bản án số 60/2010/HSST)

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày từ ngày 18/6/2018, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Phạm Ngọc T. là người nghiện ma túy. Khoảng 14 giờ ngày 18/6/2018 bị cáo điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 22B1-730.05 (xe mô tô mượn của anh Phạm Ngọc Ch, là em trai của bị cáo) đến khu vực ngã ba đường rẽ vào đền M. thuộc tổ 3, phường M, thành phố T, gặp một người phụ nữ tên là C. (không biết tên thật, địa chỉ nơi ở) hỏi và mua được 01 gói Methamphetamine, bọc ngoài bằng nilon màu trắng với số tiền 1.100.000 đồng; trên đường về đến khu vực tổ 7, phường P, thành phố T. thì bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an tỉnh Tuyên Quang phát hiện, bắt quả tang hồi 15 giờ 10 phút cùng ngày, bị cáo tự giác giao nộp gói Methamphetamine vừa mua.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo, kết quả (+) dương tính, có chất  ma túy trong cơ thể bị cáo. Bị  cáo khai nhận ngày 17/6/2018 đã sử dụng Methamphetamine mua của người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực bến xe khách thành phố T.

Tại Kết luận giám định số 299/GĐKTHS ngày 20/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Ngọc T. gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,668g (Không phẩy sáu sáu tám gam). 

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 113/CT-VKSTP ngày 01 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Phạm Ngọc T. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Ngọc T. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51,  Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Ngọc T. từ 01 (một) năm 09 (chín) tháng đến 02 (hai) năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong trong có chứa Methamphetamine và 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá đã thu giữ của bị cáo; Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Phạm Ngọc T. đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 299/GĐKTHS ngày 20/6/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo Phạm Ngọc T. nói lời sau cùng: Đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tuyên Quang, Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Ngọc T. tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng thu giữ; kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 15 giờ 10 phút ngày 18/6/2018, tại tổ 7, phường Ph, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. bị cáo Phạm Ngọc T. đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,668g (Không phẩy sáu sáu tám gam) Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có hành vi tàng trữ Methamphetamine mục đích để sử dụng, hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, do vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 06/01/2017, bị cáo Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích, bị cáo chấp hành xong án phạt tù ngày 28/01/2018 nên chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về mức án mà Viện kiểm sát đề nghị: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố T; bị cáo có nhân thân xấu, đã 02 lần bị xét xử về Tội cướp giật tài sản và Tội cố ý gây thương tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cải tạo bản thân mà còn phạm tội mới. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; trọng lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định được bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của bị cáo Phạm Ngọc T, ngày 25/6/2018 Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnhTuyên Quang đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, phạt cảnh cáo đối với bị cáo (Quyết định số 35/QĐ-XPVPHC).

Đối  với  người  phụ  nữ  tên  là  C,  theo  bị  cáo  khai  nhận  là  người  đã  bán Methamphetamine cho bị cáo tại khu vực ngã ba rẽ vào đền M, thuộc tổ 3, phường M, thành phố T. và người đàn ông đã bán Methamphetamine cho bị cáo tại khu vực bến xe khách thành phố T, nhưng không xác định được tên, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Phạm Ngọc Ch, là người đã cho bị cáo mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 22B1-730.05 nhưng không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi lại khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem xét xử lý

[8] Về vật chứng:

Đối với 01 phong bì niêm phong trong có chứa Methamphetamine là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá gồm 01 bật lửa ga, 01 ống nhựa gắn vào nắp nhựa màu đen, 01 ống thủy tinh là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 22B1-730.05 đã qua sử dụng là tài sản của anh Phạm Ngọc Ch, anh Ch không biết bị cáo T. đã dùng xe mô tô làm phương tiện đi lại cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho anh Ch. nên không xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo T. phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo T. có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Ngọc T. phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Bị cáo Phạm Ngọc T. 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 18/6/2018.

2. Căn cứ vào: Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của Phạm Ngọc T. và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang bên trong có chứa Methamphetamine, là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành (đối tượng giám định hoàn lại); 01 bộ đồ sử dụng ma túy đá gồm 01 bật lửa ga, 01 ống nhựa gắn vào nắp nhựa màu đen, 01 ống thủy tinh là vật chứng của vụ án không có giá trị sử dụng.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày

05/10/2018

3. Căn cứ vào: Khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

- Về án phí: Bị cáo Phạm Ngọc T. phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo T. được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 120/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:120/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về