Bản án 1198/2018/HNGĐ-PT ngày 25/12/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1198/2018/HNGĐ-PT NGÀY 25/12/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25/12/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án thụ lý số 123/2018/TLPT-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2018 về vụ việc “Tranh chấp ly hôn”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 29/2018/HNGĐ-ST ngày 19/09/2018 của Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 6022/2018/QĐ-PT ngày 03 tháng 12 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phạm Q, sinh năm: 1977

Địa chỉ: C Tôn Đản, Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Tạm trú: S Trần Quang Đạo, xã Q, huyện S, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Bà Hoàng Thị B , sinh năm: 1976

Địa chỉ: C Tôn Đản, Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Tạm trú: S Trần Quang Đạo, xã Q, huyện S, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người kháng cáo: Ông Phạm Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trình bày của ông Phạm Q:

Năm 2004, ông và bà Hoàng Thị B  kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy chứng nhận kết hôn.

Sau khi kết hôn vợ chồng ông thuê nhà ở Quận D để sinh sống. Tuy nhiên, sau khi sinh con thứ hai (năm 2009) hai vợ chồng về sống chung với gia đình bên chồng. Sau thời gian 02 năm chung sống với bố mẹ chồng thì bà B phát sinh mâu thuẫn với gia đình bên chồng. Bà B  thường chửi bóng gió, gây chuyện với em chồng, không tôn trọng, xem thường bố mẹ chồng. Vì vậy, mà ông phải vay mượn tiền mua nhà riêng ở S để vợ chồng sinh sống. Tuy nhiên, do quan điểm và các vấn đề khác của hai vợ chồng không hợp, trái chiều, vợ chồng thường xuyên cãi vã, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Mỗi lần cãi nhau bà B  thường bỏ nhà đi, cụ thể ngày 09/9/2017 sau khi cãi nhau bà B  bỏ về quê ở Huế suốt 17 ngày, bỏ con không chăm sóc, thăm hỏi. Mặc dù, nhiều lần hai vợ chồng đã ngồi lại tìm cách giải quyết nhưng không được. Hai vợ chồng đã ly thân từ tháng 06/2017 đến nay.

Bà B có nhiều hành động quấy rối trong công việc cũng như trong cuộc sống của ông. Có lúc cãi nhau bà còn hăm dọa cầm dao đòi giết ông, tự tử và cho con uống thuốc trừ sâu chết theo mẹ.

Bà B có thái độ hỗn láo với cha mẹ chồng, nuôi dạy con cái không theo ý chồng, nấu đồ ăn cho chồng không đúng sở thích và bà B  không cho ông đi chơi để xả stress trong những ngày cuối tuần, cư xử ki bo với bên gia đình chồng. Lúc nào bà B  cũng tỏ thái độ ghen tuông hay cằn nhằn ông trong thời gian dài nên ông Q  không chịu nổi tính tình của bà B  và không còn tình cảm nữa. Tình cảm ông dành cho bà B  không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông yêu cầu được ly hôn.

Về  con  chung:  Ông  và  bà  B    có  03  con  chung:  Phạm  N,  sinh  ngày 29/11/2004; Phạm K, sinh ngày 10/11/2009; Phạm H, sinh ngày 24/01/2012.

Nếu được ly hôn, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng ba con chung cho đến khi các cháu đủ 18, không yêu cầu bà B cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung:  Căn nhà cấp 4 tọa lạc trên phần đất thửa R do Ủy ban nhân dân huyện S cấp cho ông Phạm Q và bà Hoàng Thị B  ngày 06/10/2015. Ông Q yêu cầu được chia đôi giá trị căn nhà, ông Q  sẽ trả cho bà B  số tiền trị giá ½ căn nhà; Theo định giá của Hội đồng định giá ngày 16/8/2018 thì tổng giá trị căn nhà là 1.036.312.930 (Một tỷ không trăm ba mươi sáu triệu ba trăm mười hai ngàn chín trăm ba mươi) đồng, cụ thể ông Q sẽ giao cho bà B số tiền 518.156.465 (Năm trăm mười tám triệu một trăm năm mươi sáu ngàn bốn trăm sáu mươi lăm) đồng và ông sẽ giữ căn nhà lại cho các con.

Về nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn bà Hoàng Thị B trình bày: Bà thống nhất với lời trình bày của ông Q về việc kết hôn. Tuy nhiên, bà cho rằng cuộc sống vợ chồng rất hạnh phúc trong thời gian 15 năm, không hiểu lý do gì mà ông Q  nộp đơn yêu cầu ly hôn. Bản thân bà đã sửa chữa thái độ cư xử với cha mẹ chồng và quan hệ với gia đình chồng rất bình thường. Hàng ngày ông Q  đi làm từ sáng đến tối mới về thì bà B  một mình chăm lo cho các con, hiện các con của bà vẫn phát triển bình thường và học tốt. Do trước đây bà có ghen tuông ông Q  với người khác nên giữa vợ chồng bà có mâu thuẫn nhưng sau đó cả hai sống hạnh phúc. Trong thời gian ông Q gửi đơn ly hôn thì ông Q vẫn ăn cơm ở nhà và sinh hoạt vợ chồng bình thường. Chỉ hơn 01 tháng nay do có việc nên ông Q  đi về nhà cha mẹ ruột ở Quận D ở không về nhà nhưng vẫn gửi tiền về cho bà để chi phí sinh hoạt tiêu dùng cho mẹ con bà. Vì những lý do trên bà B  nhận thấy tình cảm vợ chồng của bà không đến mức mâu thuẫn trầm trọng dẫn đến ly hôn nên bà không đồng ý. Bà mong Tòa án hòa giải để vợ chồng bà đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy ba con là: Phạm N, sinh ngày 29/11/2004; Phạm K, sinh ngày 10/11/2009 và Phạm H, sinh ngày 24/01/2012 khôn lớn, trưởng thành.

Do bà không đồng ý ly hôn nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung.

Tại bản án số 29/2018/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Q về ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn đối với bà Hoàng Thị B .

2. Về án phí:

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, ông Phạm Q phải nộp, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng  án  phí đã nộp là 3.800.000 (ba triệu tám trăm nghìn) đồng theo biên lai số 05869 ngày ngày 03 tháng 4 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; Ông Phạm Q được hoàn trả lại số tiền chênh lệch là 3.500.000 (ba triệu năm trăm nghìn) đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo của đương sự theo luật định. Ngày 04 tháng 10 năm 2018 ông Phạm Q kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, với yêu cầu:

Ông yêu cầu được ly hôn với bà Hoàng Thị B vì vợ chồng mâu thuẫn gay gắt, nghiêm trọng không thể sống chung được; Nếu được ly hôn ông yêu cầu được nuôi ba con chung, không yêu cầu bà Hoàng Thị B  cấp dưỡng và chia tài sản chung như yêu cầu của ông ở tòa cấp sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Ông Phạm Q vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Bà Hoàng Thị B  không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của ông Q vì bà còn yêu thương chồng con, vợ chồng không có mâu thuẫn gì trầm trọng, đề nghị giữ y bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử và đương sự thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Q; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của ông Phạm Q làm trong hạn luật định nên được chấp nhận.

- Xét yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Q có đủ căn cứ để xác định:

Quan hệ hôn nhân: Ông Phạm Q và bà Hoàng Thị B  tự nguyện đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 106-KH, quyển số 01-2004 tại Ủy ban nhân dân Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 05/10/2004 thì quan hệ hôn nhân giữa ông Q và bà B là hôn nhân hợp pháp.

Ông Q  kháng cáo yêu cầu được ly hôn với bà B  vì ông cho rằng bà B không có trách nhiệm với gia đình, cư xử không đúng mực,không quan tâm đến chồng con, không tôn trọng gia đình bên chồng, bất đồng quan điểm dẫn tới tranh cãi, mâu thuẫn.

Căn cứ biên bản xác minh ngày 20/7/2018 và lời khai của cháu Phạm N (là con gái lớn của ông Q  và bà B ) thì từ ngày ông Q  và bà B đã ra ở riêng nhưng cả ông Q  và bà B  vẫn có trách nhiệm với hai bên nội ngoại và hiện tại mối quan hệ giữa ông Q  và bà B  với hai bên nội ngoại không có vấn đề mâu thuẫn. Ông Q  lấy sự việc trước đây với gia đình bên chồng để cho rằng đó là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là không còn phù hợp.

Ông Q và bà B có mâu thuẫn do quan điểm bất đồng. Tuy nhiên những mâu thuẫn trên cũng được Ban nhân dân ấp K tiến hành hòa giải, sau đó vợ chồng trở lại bình thường, không còn mâu thuẫn. Ngoài ra, theo kết quả xác minh ngày 20/7/2018, lời khai của ông Q , bà B  thì ông Q  là người đi làm lo kinh tế gia đình, còn bà B  phụ trách chăm sóc ba người con, nội trợ và may gia công thêm ở nhà. Vì vậy, ông Q cho rằng bà B  bỏ con, không chăm sóc, thăm hỏi là không có cơ sở.

Qua biên bản xác minh ngày 20/7/2018, lời khai của cháu Phạm N thì bà B vẫn cùng sinh sống với ông Q  và bản thân ông Q  vẫn thừa nhận trong thời gian xin ly hôn ông và bà B  vẫn duy trì sinh hoạt vợ chồng nên ông Q  cho rằng hai vợ chồng ly thân từ tháng 6/2017 là không đúng.

Những chứng cứ ông Q đưa ra tại tòa án cấp sơ thẩm và tại cấp phúc thẩm ông không có chứng cứ nào khác chứng minh cho yêu kháng cáo của mình.

Mặt khác, vì quyền lợi của các trẻ, hiện các con của ông Q  và bà B  là các trẻ Phạm N, sinh ngày 29/11/2004; Phạm K, sinh ngày 10/11/2009 và Phạm H, sinh ngày 24/01/2012 đang nằm trong độ tuổi phát triển hình thành nhân cách

 cũng cần sự ổn định, cần quan tâm chăm sóc của cả cha lẫn mẹ để phát triển toàn diện về mọi mặt, đồng thời tạo điều kiện về mặt thời gian để hai bên có cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng nên không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Q . Tòa án cấp sơ thẩm nhận định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Q vì không thỏa mãn các điều kiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình là có căn cứ nên giữ nguyên bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại điện Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Ông Phạm Q phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 148, Điều 293, Khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Q. Giữ nguyên bản án sơ thẩm, xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Q về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn đối với bà Hoàng Thị B .

Án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, ông Phạm Qchịu được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.800.000 đồng theo biên lai số 05869 ngày 03 tháng 4 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; Ông Phạm Q được hoàn trả lại số tiền chênh lệch là 3.500.000 đồng.

Án phí dân sự phúc thẩm 300.000 đồng ông Phạm Q chịu được trừ vào theo Biên lai thu số 06148 ngày 10 tháng 10 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1198/2018/HNGĐ-PT ngày 25/12/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1198/2018/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về