Bản án 119/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 119/2020/HS-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 126/2020/TLST- HS ngày 16 tháng 11 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2020/QĐXXST- HS ngày 17/11/2020, đối với bị cáo Nguyễn Thế B, sinh ngày 23/12/1996 tại Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Tổ dân phố 14, phường T1, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Văn Q và bà Hoàng Thị H; vợ: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 18/3/2020 Công an thành phố Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền 500.000 đồng) về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy; nhân thân: Ngày 21/5/2010 Ủy ban nhân dân thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào Trường giáo dưỡng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; ngày 24/8/2020 Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 09 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (bị cáo chưa chấp hành).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/6/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 ngày 15/6/2020, bị cáo Nguyễn Thế B đi xe đạp điện biển kiểm soát 22MĐ1- 085xx (xe mượn của anh Trần Đỗ M) đến khu vực quán Cafef N thuộc phường T1, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, mục đích là gặp một người tên H để mua Methamphetamine về sử dụng (theo bị cáo khai trước khi đi bị cáo cùng một người bạn tên là Lương Hoài N rủ nhau mua ma tuý về sử dụng và bị cáo đã điện thoại cho một người tên là H hỏi mua ma tuý, H nhất trí, hẹn bị cáo đến địa điểm đến khu vực quán Cafef N để mua bán, trao đổi ma tuý). Sau khi đến địa điểm đã hẹn trước, bị cáo gặp và đưa cho người đàn ông tên H số tiền 300.000 đồng (theo bị cáo khai số tiền này là của Lương Hoài N đưa cho bị cáo để mua ma tuý); sau khi nhận tiền, người đàn ông tên H chỉ cho bị cáo 01 gói Methamphetamine để trong 01 ống nhựa màu hồng được hàn kín 02 đầu để dưới đất cạnh bụi cây ven đường, bị cáo đến cầm gói Methamphetamine lên ngậm vào trong miệng, rồi điều khiển xe đi về nhà nghỉ Thu H (nơi N đang chờ bị cáo). Hồi 14 giờ 40 phút cùng ngày, khi bị cáo đi đến khu vực tổ 09, phường T1, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang thì bị Tổ công tác Công an phường M, thành phố T phối hợp Công an thành phố T, tỉnh Tuyên Quang phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, bị cáo đã tự giác giao nộp 01 gói Methamphetamine vừa mua được. Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo, kết quả (+) dương tính (bị cáo khai nhận ngày 14/6/2020 đã sử dụng ma túy).

Tại kết luận giám định số 510/GĐKTHS ngày 18/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật (thu giữ của Nguyễn Thế Bách) gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, số thứ tự 323 thuộc danh mục IIC, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018; khối lượng 0,131g (không phẩy một ba một gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 125/CT-VKSTP ngày 16 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Thế B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Thế B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thế B từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù. Tổng hợp với phần hình phạt 09 (chín) tháng tù chưa chấp hành về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” của bản án số 69/2020/HS-ST ngày 24/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang.

Ngoài ra Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo; xử lý vật chứng (tịch thu, tiêu huỷ số Methamphetamine còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động); tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Thế B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi vi phạm của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thế Btiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 40 phút ngày 15/6/2020, tại khu vực tổ 09, phường T1, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Nguyễn Thế B đã có hành vi cất giữ trái phép 0,131g (không phẩy một ba một gam) Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; số Methamphetamine mà bị cáo cất giữ trái phép có khối lượng dưới 05 gam. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố; bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội khi đang bị khởi tố, điều tra về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” trong một vụ án khác. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Ngày 24/8/2020 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (tại bản án số 69/2020/HS-ST), hiện bị cáo vẫn chưa chấp hành hình phạt của bản án này, do vậy, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ tổng hợp hình phạt của hai bản án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 14/6/2020 của bị cáo. Công an thành phố Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính (phạt tiền 750.000 đồng); đối với Lương Hoài N, theo bị cáo khai nhận là người đưa số tiền 300.000 đồng cho bị cáo và bảo bị cáo đi mua Methamphetamine về để cùng nhau sử dụng và Phạm Hồng H là người bán Methamphetamine cho bị cáo. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp điều tra nhưng không có căn cứ xác định N là người đưa tiền cho bị cáo đi mua Methamphetamine và H là người bán Methamphetamine cho bị cáo nên không có căn cứ để xử lý. Vì vây Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng: Đối với số ma tuý còn lại (sau khi giám định) đã thu giữ của bị cáo được niêm phong theo quy định là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy; đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUAWEI màu vàng, là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo.

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 56; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thế B phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế B 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành 09 (chín) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tại bản án số 69/2020/HS-ST ngày 24/8/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Buộc bị cáo Nguyễn Thế B phải chấp hành hình phạt của hai bản án là 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (15/6/2020).

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự - Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của Nguyễn Thế B, thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,081g Methamphetamine:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thế B 01 diện thoai di động nhãn hiệu HUAWEI màu vàng.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 20/11/2020.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:119/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về