Bản án 119/2020/HNGĐ-ST ngày 16/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 119/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 16 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 515/2020/TLST-HNGD ngày 11/6/2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 131/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/8/2020 và Quyết định hoãn số 92/2020/QĐST-HNGĐ, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1988;

Thường trú: Đội 1, Thọ Hạ, xã Q, thị xã B, tỉnh Q;

Tạm trú: 13A/7 khu phố T, phường A, thành phố D, tỉnh B, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Trương Quang H, sinh năm 1985;

Thường trú: Đội 1, Thọ Hạ, xã Q, thị xã B, tỉnh Q;

Tạm trú: 13A/7 khu phố T, phường A, thành phố D, tỉnh B, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 11/6/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị B trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị B và anh Trương Quang H, tìm hiểu nhau được thời gian, thì đăng ký kết hôn vào năm 2008 tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện D, tỉnh N, theo giấy chứng nhận kết hôn số 58, quyển số 01/2008 do Ủy ban nhân dân xã K, huyện D, tỉnh N cấp ngày 11/7/2008, việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện và được hai bên gia đình đồng ý. Sau khi kết hôn vợ chồng thuê nhà trọ sinh sống tại D, tỉnh B. Vợ chồng sống hạnh phúc được đến giữa năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H thường xuyên uống rượu về kiếm chuyện chửi bới và dùng những lời xúc phạm đến chị và gia đình chị B có khi anh H còn đánh chị. Chị B đã cố gắng chịu đựng sống vì các con và mong muốn anh H thay đổi nhưng bản thân anh H không thay đổi dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng không cải thiện được. Mâu thuẫn của vợ chồng thi hai bên gia đình đều không biết do anh chị sống thuê trọ không sống gần gia đình hai bên. Và khi vợ chồng cãi nhau thì cãi trong phòng nên những người ở chung dãy trọ không biết được, anh chị đã sống ly thân từ cuối năm 2019 cho đến nay mặc dù anh chị vẫn sống chung phòng trọ. Nay chị Nguyễn Thị B xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh Trương Quang H.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Trương Nguyễn Hoài A, sinh ngày 27/10/2010 và Trương Tuấn A1, sinh ngày 12/11/2016. Khi ly hôn chị B yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được nuôi hết hai con chung không yêu cầu anh Trương Quang H phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay các con đang sinh sống cùng với anh chị (chị và anh H vẫn sống chung nhà trọ) nhưng chị B là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung (nghĩa vụ chung): Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn anh Trương Quang H: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải bằng hình thức niêm yết công khai và yêu cầu anh Trương Quang H có ý kiến trả lời bằng văn bản đối với các yêu cầu của chị Nguyễn Thị B nhưng anh H không có ý kiến cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì. Vào ngày 07/8/2020 Tòa án triệu tập anh H tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia hòa giải, nhưng anh H vắng mặt không có lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đối với anh H nhưng anh vẫn vắng mặt hai lần liên tiếp, đồng thời cũng không có ý kiến và cũng không cung cấp bất cứ tài liệu chứng cứ gì để thể hiện anh H đồng ý hay không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của chị B. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Trương Quang H theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, việc tiến hành tố tụng đã đảm bảo tuân thủ pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định.

Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị B có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn anh Trương Quang H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 28/8/2020 và ngày 16/9/2020 nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt tất cả các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị B và anh Trương Quang H là vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện D, tỉnh N, theo giấy chứng nhận kết hôn số 58, quyển số 01/2008 do Ủy ban nhân dân xã K, huyện D, tỉnh N cấp ngày 23/6/2010 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc, để đạt được mục đích đó vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của chị B thì thực tế cuộc sống vợ chồng của chị B và anh H có nhiều mâu thuẫn. Chị B xác định mâu thuẫn vợ chồng nguyên nhân là do anh H thường xuyên uống rượu về kiếm chuyện chửi bới và dùng những lời xúc phạm chị và gia đình nhà chị B, có khi anh H còn đánh chị. Chị B đã cố gắng chịu đựng sống vì các con và mong muốn anh H thay đổi nhưng bản thân anh H không thay đổi dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng không cải thiện được, vợ chồng anh chị ly thân từ cuối năm 2019 đến nay. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã triệu tập anh H đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh H không đến tham gia hòa giải và cũng không tham gia phiên tòa, điều này càng chứng tỏ tình cảm vợ chồng đã thực sự không còn và cả hai bên đều không muốn hàn gắn, anh H cũng không có ý kiến phản bác về những mâu thuẫn vợ chồng như chị B trình bày, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng như chị B trình bày là đúng và đã thật sự trầm trọng. Vì vậy, chị B yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định của Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên chấp nhận.

[3] Về con chung: Giữa chị Nguyễn Thị B và anh Trương Quang H có 02 con chung tên Trương Nguyễn Hoài A, sinh ngày 27/10/2010 và Trương Tuấn A1, sinh ngày 12/11/2016, hiện nay chị B là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung. Khi ly hôn chị B yêu cầu được trực tiếp nuôi hết hai con chung. Anh H vắng mặt không có ý kiến gì đối với yêu cầu nuôi con chung của chị B. Việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng cần phải xem xét về mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét cháu A là con gái, cháu Tuấn A1 còn nhỏ từ trước đến nay chị B là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu, đồng thời cháu A cũng có nguyện vọng sống cùng với mẹ. Vậy nên giao con chung là cháu Trương Nguyễn Hoài A, sinh ngày 27/10/2010 và Trương Tuấn A1, sinh ngày 12/11/2016 cho chị Nguyễn Thị B trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn sẽ bảo đảm quyền lợi của phụ nữ, trẻ em khi vợ chồng ly hôn và đảm bảo tiếp tục duy trì cuộc sống bình thường về mọi mặt của cháu, phù hợp với nguyện vọng của cháu và cũng phù hợp với quy định tại Điều 81, 82 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị B không yêu cầu anh Trương Quang H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét đây là sự tự nguyện của chị B nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu Tòa án giải quyết.

[6] Từ những nhận định trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về tranh chấp ly hôn, nuôi con của chị Nguyễn Thị B với anh Trương Quang H và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D tham gia phiên tòa về việc giải quyết vụ án.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị B chịu án phí ly hôn theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị B được ly hôn với anh Trương Quang H (theo giấy chứng nhận kết hôn số 58, quyển số 01/2008 do Ủy ban nhân dân xã K, huyện D, tỉnh N cấp ngày 11/7/2008).

2. Về con chung: Anh Trương Quang H giao hai con chung là cháu Trương Nguyễn Hoài A, sinh ngày 27/10/2010 và cháu Trương Tuấn A1, sinh ngày 12/11/2016 cho chị Nguyễn Thị B trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, chị Nguyễn Thị B phải tạo điều kiện cho anh Trương Quang H thăm nom con, không ai có quyền cản trở anh H thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng.

3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị B về việc không yêu cầu anh Trương Quang H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị B phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0040709 ngày 11/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh B.

6. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị B và bị đơn anh Trương Quang H vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2020/HNGĐ-ST ngày 16/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:119/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về