TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 119/2018/HS-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 103/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2018/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Mùa Bá C - tên gọi khác: không; sinh ngày 05/6/2001 tại xã TC, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản SH, xã TC, huyện KS, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 10/12; dân tộc: Mông; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mùa Xái H (đã chết) và bà Và Y N; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 16/7/2018 đến ngày 12/11/2018 thì bị bắt giam trong một vụ án khác. Có mặt.
2. Họ và tên: Mùa Thắng L - tên gọi khác: không; sinh ngày 30/5/2002 tại xã TC, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản SH, xã TC, huyện KS, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 08/12; dân tộc: Mông; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mùa Bá S và bà Hạ Y D; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 14/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn kết án 05 (năm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 112/2018/HS-ST, ngày 15/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn kết án 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 113/2018/HS-ST; Bị cáo Mùa Thắng L hiện đang bị tạm giam trong vụ án khác theo quyết định tạm giam số 105/2018/HSST-QĐTG ngày 14/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
3. Họ và tên: Vừ Bá Ch - tên gọi khác: Vừ Bá A; sinh ngày 19/5/1995 tại xã TC, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Bản SH, xã TC, huyện KS, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: mù chữ; dân tộc: Mông; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vừ Bá T (Chết) và bà Lầu Y X; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/7/2018 đến nay; Có mặt.
- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo chưa thành niên Mùa Bá C: Bà Và Y N (mẹ đẻ của bị cáo); sinh năm 1959; Trú tại bản SH, xã TC, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo chưa thành niên Mùa Thắng L: Ông Mùa Bá S (bố đẻ của bị cáo); sinh năm 1980; Trú tại bản SH, xã TC, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Có mặt.
- Người bào chữa cho các bị cáo chưa thành niên: Ông Lê Công T - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Nghệ An; Có mặt;
- Bị hại: Anh Mùa Bá T; sinh năm 1978; Trú tại bản P, xã N, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lầu Y X; sinh năm 1972; Trú tại bản SH, xã TC, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào sáng ngày 05/7/2018, Mùa Bá C đến nhà của Vừ Bá Ch chơi nhưng Vừ Bá Ch không ở nhà, tại đây, Mùa Bá C gặp Mùa Thắng L, Mùa Bá C rủ Mùa Thắng L cùng đi vào xã N, huyện KS, tỉnh Nghệ An để trộm cắp tài sản vì trong đó người dân không có két sắt và được Mùa Thắng L đồng ý. Một lúc sau Vừ Bá Ch về nhà thì gặp Mùa Bá C và Mùa Thắng L đang ở đó, cả ba người cùng nhau uống rượu được một lúc thì Mùa Bá C nói với Vừ Bá Ch là mượn xe để đi chơi nhưng Vừ Bá Ch không cho nên Mùa Bá C đã nói thật với Vừ Bá Ch mượn xe để vào xã N trộm cắp tài sản, lúc đầu Vừ Bá Ch không đồng ý nhưng sau đó Vừ Bá Ch nói lại “nếu đi trộm thì cả ba người cùng đi”. Thống nhất xong, Vừ Bá Ch điều khiển xe máy của gia đình nhãn hiệu WAVE α, BKS: 37N7- 5541 chở Mùa Bá C và Mùa Thắng L đi vào xã N, huyện KS, tỉnh Nghệ An để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, khi đến bản P, xã N, huyện KS, tỉnh Nghệ An, Mùa Bá C nói với Vừ Bá Ch: “Anh đứng chờ bên khe để em với Lợi vào trong bản xem nhà ai không có người thì vào lấy trộm tài sản”. Mùa Bá C và Mùa Thắng L đi bộ vào trong bản quan sát một số nhà dân đều có người ở nhà nên Mùa Bá C nói với Mùa Thắng L: “Lại nhà anh trai tau xem không có ai ở nhà thì vào trộm”. Hai người đến nhà anh Mùa Bá T (là anh trai của Mùa Bá C) thì không có ai ở nhà, Mùa Thắng L vào bếp lấy 01 (Một) con dao (loại dao người Mông) đào đất chui vào nhà và mở cửa cho Mùa Bá C vào. Sau khi vào được nhà, Mùa Bá C và Mùa Thắng L đi vào phòng ngủ thấy có hai chiếc rương bằng gỗ có khoá, Mùa Bá C tìm chìa khoá trong nhà để mở nhưng không thấy nên Mùa Thắng L đã sử dụng một cái dũa để cưa khoá. Sau khi cưa được khoá hai người mở rương ra thì thấy 01 (Một) bọc tiền với nhiều mệnh giá khác nhau, Mùa Bá C đếm số tiền trên được 10.800.000đ (Mười triệu tám trăm nghìn đồng), Mùa Bá C và Mùa Thắng L chia nhau mỗi người 4.500.000đ (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng), còn lại số tiền 1.800.000 (Một triệu tám trăm nghìn) đồng V bỏ vào túi quần rồi ra đưa cho Vừ Bá Ch. Sau đó, Vừ Bá Ch điều khiển xe máy chở Mùa Bá C và Mùa Thắng L đi về nhà, trên đường về Mùa Bá C nói với Mùa Thắng L mỗi người đưa thêm cho Vừ Bá Ch 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng thì Mùa Thắng L đồng ý. Khi về đến bản SH, xã TC, huyện KS, tỉnh Nghệ An thì Mùa Bá C và Mùa Thắng L đưa thêm cho Vừ Bá Ch 1.000.000đ (Một triệu đồng). Toàn bộ số tiền đã trộm cắp được các đối tượng đã tiêu xài cá nhân hết.
Phát hiện bị mất tài sản anh Mùa Bá T đã làm đơn trình báo Cơ quan chức năng. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định được Mùa Bá C, Mùa Thắng L và Vừ Bá Ch chính là các đối tượng thực hiện hành vi trộm cắp của anh Mùa Bá T số tiền 10.800.000đ (Mười triệu tám trăm nghìn đồng). Tại Cơ quan điều tra, Mùa Bá C, Mùa Thắng L và Vừ Bá Ch đã thừa nhận hành vi của mình. Mục đích trộm cắp tài sản là để lấy tiền tiêu xài.
Sau khi khởi tố, Mùa Bá C bị áp dụng biện pháp “Cấm di khỏi nơi cư trú” từ ngày 16/7/2018 đến ngày 12/11/2018 thì bị bắt giam trong một vụ án khác; bị cáo Mùa Thắng L cũng bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/7/2018 đến nay trong một vụ án khác (hiện Mùa Thắng L đã bị kết án trong hai bản án khác đó là bản án sơ thẩm số 112/2018/HS- ST ngày 14/11/2018 và bản án sơ thẩm số 113/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 đều của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn hiện cả hai bản án này đang trong thời gian chờ hiệu lực pháp luật để đưa bị cáo đi thi hành án); bị cáo Vừ Bá Ch bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/7/2018 đến nay.
Cáo trạng số 111/CT-VKS-HS ngày 25 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã truy tố Mùa Bá C, Mùa Thắng L và Vừ Bá Ch về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa các bị cáo đều khai nhận có hành vi trộm cắp tài sản của anh Mùa Bá T số tiền 10.800.000đ (Mười triệu tám trăm nghìn đồng) với các tình tiết như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Mùa Bá C, Mùa Thắng L và Vừ Bá Ch phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Mùa Bá C từ 06 (sáu) đến 08 (tám) tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Mùa Thắng L từ 05 (năm) đến 07 (bảy) tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vừ Bá Ch từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù. Ngoài ra đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo Mùa Bá C và Mùa Thắng L, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Vừ Bá Ch, xem xét trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Đại diện gia đình các bị cáo đều cam kết gia đình sẽ có trách nhiệm quản lý giáo dục các bị cáo, đề nghị Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết: Các bị cáo Mùa Bá C và Mùa Thắng L là người chưa thành niên, các bị cáo đều là dân tộc thiểu số, giá trị tài sản trộm cắp không lớn, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Người bị hại anh Mùa Bá T cho rằng ngoài số tiền 10.800.000đ (Mười triệu tám trăm nghìn đồng) các bị cáo đã trộm cắp thì còn bị thiệt hại số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), hiện tại gia đình bị cáo Mùa Thắng L đã bồi thường được 4.000.000đ (Bốn riệu đồng), gia đình bị cáo Mùa Bá C đã bồi thường được 2.600.000đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng), nay yêu cầu các bị cáo bồi thường tiếp số tiền còn thiếu.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Lầu Y Xìa trình bày: chiếc xe máy nhãn hiệu WAVE α, BKS: 37N7- 5541 là tài sản chung của gia đình, các bị cáo trong đó có con của bà sử dụng xe để đi trộm cắp tài sản của người khác gia đình không biết nên đề nghị Tòa án trả lại chiếc xe đó cho gia đình.
Các bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được công bố, thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, phù hợp với nội dung bản cáo trạng truy tố nên đủ cơ sở để kết luận: Vào sáng ngày 05/7/2018 các bị cáo Mùa Bá C, Mùa Thắng L và Vừ Bá Ch đã có hành vi lợi dụng sơ hở của người khác dùng thủ đoạn lén lút, đột nhập vào nhà của anh Mùa Bá T ở bản P, xã N, huyện KS, tỉnh Nghệ An để trộm cắp số tiền 10.800.000đ (Mười triệu tám trăm nghìn đồng). Hành vi đó của các bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của người khác để dùng thủ đoạn lén lút chiếm đoạt tài sản, đã xâm phạm đến quyền sỡ hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, hoang mang trong quần chúng, hành vi đó đã vi phạm pháp luật hình sự nên phải xử lý nghiêm minh. Cần tuyên phạt các bị cáo mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã gây ra để cải tạo, giáo dục riêng các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Đây là vụ án có đồng phạm vì vậy cần xem xét tính chất, vai trò để lên cho mỗi bị cáo mức án phù hợp với hành vi của từng bị cáo.
- Đối với bị cáo Mùa Bá C là đối tượng cầm đầu, đã chủ động rủ rê, lôi kéo Mùa Thắng L, Vừ Bá Ch đi trộm cắp tài sản, quá trình thực hiện tội phạm Mùa Bá C thể hiện vai trò tích cực nhất nên trong vụ án này bị cáo Mùa Bá C là đối tượng giữ vai trò chính. Bản thân bị cáo Mùa Bá C ngoài lần phạm tội này thì đang bị tạm giam để điều tra trong một vụ án hình sự khác, điều đó chứng tỏ bị cáo mặc dù tuổi đời còn trẻ, là người chưa thành niên nhưng đã sớm có ý thức coi thường pháp luật, không chịu học tập lao động rèn luyện để trở thành người tốt mà lại bỏ học, ham chơi đua đòi sớm đi vào con đường phạm tội, việc để bị cáo ở ngoài xã hội sẽ không có tác dụng răn đe, vì vậy cần cách ly bị cáo Mùa Bá C ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng thấy rằng nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội đã cùng gia đình bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo Mùa Bá C là người chưa thành niên phạm tội (thời điểm thực hiện hành vi phạm tội lần này bị cáo mới 17 tuổi 01 tháng) nên cần áp dụng các Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự về chính sách xử lý người chưa thành niên phạm tội để quyết định cho bị cáo một mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định so với người đã thành niên phạm tội.
- Đối với bị cáo Mùa Thắng L mặc dù bị rủ rê, lôi kéo nhưng đã thực hiện tội phạm một cách tích cực, là người trực tiếp cạy cửa, phá khóa rương để cùng bị cáo khác trộm cắp tài sản nên Mùa Thắng L phải chịu trách nhiệm cho hành vi mà mình gây ra. Bản thân bị cáo Mùa Thắng L mặc dù tuổi đời còn trẻ nhưng đã liên tục thực hiện các hành vi phạm tội, ngoài lần phạm tội này Mùa Thắng L đã bị kết án trong hai vụ án khác (bản án số 112/2018/HS-ST ngày 14/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn kết án 05 (năm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bản án số 113/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn kết án 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, các bản án này hiện đang trong giai đoạn chờ hiệu lực pháp luật để đưa bị cáo đi thi hành án). Như vậy chứng tỏ Mùa Thắng L mặc dù tuổi đời còn trẻ, là người chưa thành niên nhưng đã sớm có bản tính coi thường pháp luật, không chịu tu dưỡng rèn luyện, học tập mà lại bỏ học, ăn chơi đua đòi, liên tục thực hiện các hành vi phạm tội nên việc để bị cáo ở ngoài xã hội sẽ không có tác dụng giáo dục, răn đe, vì vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo Mùa Thắng L trở thành người tốt. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng thấy rằng bị cáo Mùa Thắng L sau khi phạm tội đã được gia đình bồi thường bồi hoàn đầy đủ cho người bị hại, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Bị cáo Mùa Thắng L là người chưa thành niên phạm tội (thời điểm thực hiện hành vi phạm tội lần này bị cáo mới 16 tuổi 01 tháng 05 ngày) nên cần áp dụng các Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự về chính sách xử lý người chưa thành niên phạm tội để quyết định cho bị cáo một mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định so với người đã thành niên phạm tội.
- Đối với bị cáo Vừ Bá Ch mặc dù cũng là người bị rủ rê, lôi kéo nhưng sau khi bị rủ rê thì đã thực hiện tội phạm một cách tích cực đó là dùng xe máy của gia đình chở các bị cáo khác đi trộm cắp tài sản nên bị cáo phải chịu trách nhiệm do hành vi mà mình đã gây ra. Trong vụ án này bị cáo Vừ Bá Ch là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức về hành vi của mình, đáng ra bị cáo phải có trách nhiệm dạy bảo, can ngăn không cho các bị cáo chưa thành niên phạm tội, ngược lại bị cáo lại đồng tình, ủng hộ các bị cáo chưa thành niên để cùng thực hiện tội phạm, chứng tỏ bị cáo không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, coi thường pháp luật, việc để bị cáo ở ngoài cũng không có tác dụng giáo dục răn đe, vì vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng thấy rằng nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
[3] Hình phạt bổ sung: Các bị cáo Mùa Bá C và Mùa Thắng L là người chưa thành niên nên không xem xét hình phạt bổ sung; đối với bị cáo Vừ Bá Ch là người đã thành niên, tuy nhiên bị cáo sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn, thu nhập chủ yếu từ nương rẫy nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Mùa Bá T cho rằng ngoài số tiền 10.800.000đ (Mười triệu tám trăm nghìn đồng) thì các bị cáo còn chiếm đoạt của anh số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) nên anh yêu cầu các bị cáo bồi thường tổng số tiền là 15.800.000đ (Mười lăm triệu tám trăm nghìn đồng). Thấy rằng quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo chỉ thừa nhận có chiếm đoạt của anh Mùa Bá T số tiền 10.800.000đ (Mười triệu tám trăm nghìn đồng), các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra có tại hồ sơ vụ án cũng chỉ chứng minh được số tiền mà các bị cáo chiếm đoat là 10.800.000đ (Mười triệu tám trăm nghìn đồng). Vì vậy Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận xem xét trách nhiệm bồi thường trong phạm vi số tiền 10.800.000đ (Mười triệu tám trăm nghìn đồng)
Trước khi mở phiên tòa thì gia đình bị cáo Mùa Thắng L đã bồi thường được số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng), gia đình bị cáo Mùa Bá C đã bồi thường được số tiền 2.600.000đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng), nay các bị cáo phải liên đới bồi thường số tiền còn thiếu là 4.200.000đ (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng).
[5] Về phân chia kỷ phần bồi thường: Căn cứ vào số tiền mà các bị cáo được hưởng sau khi chiếm đoạt tài sản thì thấy rằng các bị cáo Mùa Bá C và Mùa Thắng L được chia mỗi người 4.000.000đ (Bốn triệu đồng), bị cáo Vừ Bá Ch được chia số tiền 2.800.000đ (Hai triệu tám trăm nghìn đồng) vì vậy cần buộc các bị cáo có nghĩa vụ bồi thường số tiền tương ứng với số tiền mà mình được hưởng, theo đó:
- Bị cáo Mùa Bá C có nghĩa vụ bồi thường số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng), tuy nhiên trước khi mở phiên tòa gia đình bị cáo đã bồi thường được số tiền 2.600.000đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng), nay còn phải bồi thường thêm số tiền 1.400.000đ (Một triệu bốn trăm nghìn đồng). Do bị cáo Mùa Bá C là người chưa thành niên, không có tài sản riêng nên mẹ của bị cáo là bà Và Y No phải có trách nhiệm bồi thường thay cho bị cáo Mùa Bá C khoản tiền này.
- Bị cáo Vừ Bá Ch có nghĩa vụ bồi thường số tiền 2.800.000 đồng (Hai triệu tám trăm nghìn đồng).
- Đối với bị cáo Mùa Thắng L được hưởng lợi số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng), trước khi mở phiên tòa thì gia đình bị cáo Mùa Thắng L đã bồi thường số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) này cho bị hại, vì vậy tại phiên tòa Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm bồi thường của bị cáo Mùa Thắng L.
[6] Vật chứng vụ án: Chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE α, BKS: 37N7- 5541 mà các đối tượng sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã xác định đây là tài sản chung của gia đình bà Lầu Y X (mẹ của bị cáo Vừ Bá Ch), việc các bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội bà Lầu Y X không biết vì vậy cần trả lại chiếc xe đó cho chủ sở hữu là bà Lầu Y X.
[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Các bị cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa và bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[8] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Vừ Bá Ch, bà Vừ Y N (đại diện hợp pháp cho bị cáo chưa thành niên Mùa Bá C) là bên có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[10] Các bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo chưa thành niên, người bào chữa cho bị cáo chưa thành niên, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Về tội danh và mức hình phạt:
- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015: Tuyên bố bị cáo Mùa Bá C phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Mùa Bá C 08 (Tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015: Tuyên bố bị cáo Mùa Thắng L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Mùa Thắng L 07 (Bảy) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
- Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015: Tuyên bố bị cáo Vừ Bá Ch phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Vừ Bá Ch 09 (Chín) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 27/7/2018).
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, khoản 2 Điều 586, Điều 587, khoản 1 Điều 589 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo Vừ Bá Ch và người đại diện hợp pháp cho bị cáo chưa thành niên Mùa Bá C là bà Vừ Y N phải bồi thường cho người bị hại Mùa Bá T số tiền bị thiệt hại còn thiếu là 4.200.000đ (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng), chia kỷ phần như sau:
- Bị cáo Vừ Bá Ch bồi thường số tiền 2.800.000đ (Hai triệu tám trăm nghìn đồng);
- Bà Vừ Y N bồi thường số tiền 1.400.000đ (Một triệu bốn trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thị hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bịcưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bà Lầu Y X (sinh năm 1972, trú tại bản SH, xã TC, huyện KS, tỉnh Nghệ An) 01 (Một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE α, biển kiểm soát 37N7-5541. Vật chứng đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 08 giờ 30 phút ngày 29/9/2018.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23, Điều 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án:
- Buộc các bị cáo Mùa Bá C, Mùa Thắng L và Vừ Bá Ch mỗi người phải chịu200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm
- Buộc bị cáo Vừ Bá Ch và bà Vừ Y N (đại diện hợp pháp cho bị cáo chưa thành niên Mùa Bá C) mỗi người phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về bồi thường dân sự.
Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Các Bị cáo, Người đại diện hợp pháp cho bị cáo chưa thành niên, Người bào chữa cho bị cáo chưa thành niên, Người bị hại có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án về phần liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 119/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 119/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về