Bản án 119/2018/HS-ST ngày 19/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 119/2018/HS-ST NGÀY 19/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 19 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:120/2018/HSST ngày 26/3/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2018/QĐXXST-HS ngày 05/4/2018 đối với bị cáo: Nguyễn Đức C, sinh năm 1976; HKTT: Khu 3, phường D, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn A, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1951; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Vợ: Nguyễn Thị P, sinh năm 1980 (Đã ly hôn); Con: Có 3 con; Con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2010; Tiền án: 01

Tại bản án HSST số 22 ngày 27/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh xử phạt bị cáo 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ra trại ngày 30/10/2015. Bị cáo chưa chấp hành hình phạt tiền là 5.000.000 đồng và án phí là 200.000 đồng.

Tiền sự: Không;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/01/2018 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh đến nay, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ ngày 17/01/2018, tại khu 7, phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh, đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an thành phố Bắc Ninh phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đức C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ: Thu tại dưới đất gần vị trí C đang đứng 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng băng dính màu đen bên trong là 01 túi nilon màu trắng chứa 02 viên nén màu đỏ cùng chất tinh thể màu trắng do C thả từ tay trái xuống đất là ma túy, được niêm phong trong phong bì thư có chữ ký của C và người làm chứng.

Tại bản kết luận giám định số 199/KLGĐ - PC54 ngày 17/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng 0,9026gam; Là ma túy; Loại ma túy: Chất Methamphetamine. 02 viên nén màu đỏ bên trong 01 túi nolon màu trắng có khối lượng 0,185gam; Là ma túy; Loại ma túy: Chất Methamphetamine”.

Với nội dung trên, Cáo trạng số 36/CTr - VKS ngày 26 tháng 3 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh truy tố Nguyễn Đức C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình xét hỏi tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Đức C khai nhận: Khoảng 11 giờ 30ph ngày 17/01/2018, C đi bộ từ nhà đến khu Cổ Mễ, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh để mua ma túy sử dụng cho bản thân. Đi đến khu nhà máy kính thuộc khu Cổ Mễ, C gặp 01 người đàn ông không quen biết, C hỏi “Có ma túy bán không”? Người đàn ông trả lời “Có”. C hỏi mua 200.000 đồng ma túy, người đàn ông đồng ý, C đưa cho người đàn ông 200.000 đồng, người đàn ông nhận tiền và đưa lại cho C 01 gói nhỏ bọc ngoài bằng băng dính màu đen bên trong là 01 túi nolon màu trắng chứa 02 viên nén màu đỏ cùng chất tinh thể màu trắng. C nhận rồi cầm ở tay trái rồi đi bộ về nhà. Trên đường đi, C gặp tổ Công tác Đội điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Bắc Ninh kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng .

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội đã giữ nguyên cáo trạng truy tố. Sau khi phân tích tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cùng các tình tiết giảm nhẹ TNHS, bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng TNHS có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điểm h, khoản 1, Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức C từ 28 đến 32 tháng tù. Phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư số 199/KLGĐ - PC54 ngày 17/01/2018 có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh.

Bị cáo C thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố là đúng, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến của bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 12 giờ ngày 17/01/2018, tại khu 7, phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh, Nguyễn Đức C có hành vi tàng cất giữ trái phép 1,0876 gam ma túy là chất Methamphetamine. Bị cáo Nguyễn Đức C đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Cáo trạng truy tố bị cáo theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi hành hành vi đó đã trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận không tốt trên địa bàn. Trong khi cả xã hội ra sức loại bỏ tệ nạn nghiện hút ra khỏi đời sống cộng đồng thì bị cáo lại ngang nhiên tàng trữ ma túy, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo C. Do vậy, cần có một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi mà bị cáo đã phạm mới có dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[2] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo có 01 tiền án cũng về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo chấp hành hình phạt và ra trại năm 2015 nhưng bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt tiền và chưa nộp tiền án phí HSST của bản án, do vậy lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h, khoản 1, điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản Điều 51 Bộ luật hình sự, do vậy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình thể hiện C sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.

[3] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy bị nhận thức xã hội còn hạn chế nhưng bị cáo biết ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo và xét đề nghị của Đại điện Viện kiểm sát thành phố Bắc Ninh, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người tốt, biết tuân thủ pháp luật.

[4] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [5] Về vật chứng vụ án: Số mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Ninh là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Liên quan trong vụ án này: Có người đàn ông đã bán ma túy cho C, nhưng bị cáo không biết rõ tên tuổi, địa chỉ của người này. Do vậy Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

 [7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm c, khoản 1, Điều 249; Điểm s, khoản 1, Điều 51; Điểm h, khoản 1, điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Đức C 30 (Ba mươi tháng) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 17/01/2018. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án 19/4/2018 để đảm bảo thi hành án.

Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

Về tang vật của vụ án:

- Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định được niêm phong theo kết luận giám định số 199/KLGĐ - PC54 ngày 17/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bắc Ninh.

 (Theo đúng biên bản giao nhận tài sản, vật chứng giữa Công an thành phố Bắc Ninh và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Ninh ngày 05/4/2018).

Về án phí :

- Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2018/HS-ST ngày 19/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:119/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về