Bản án 119/2018/HS-ST ngày 05/11/2018 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 119/2018/HS-ST NGÀY 05/11/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 05 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 109/2018/TLST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị H, sinh năm 1958, tại thành phố L, tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp P, xã P, huyện P, tỉnh Hậu Giang; nơi tạm trú: số A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 4/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B (đã chết) và bà Tống Thị L (đã chết); có chồng là Bùi Văn L, chưa có con;

Tiền án: chưa;

Tiền sự: Ngày 28/8/2017, bị Ủy ban nhân dân phường B, thành phố L xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”, đã nộp phạt vào ngày 26/3/2018.

Bị cáo được tại ngoại; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Đoàn Thị T, sinh năm 1976; địa chỉ: số B, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Ông Trương Ngọc L (H), sinh năm 1970; địa chỉ: số C, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; có mặt.

- Bà Chuong Thi K (Chuong Thị K), sinh năm 1946; địa chỉ: số D, khómB, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị H đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc. Khoảng 15 giờ ngày 16/5/2018, Nguyễn Thị H cùng với Đoàn Thị T và Trương Ngọc L (H) đến phòng trọ của bà Chuong Thi K ở số D, khóm B, phường B, thành phố L đánh bài tứ sắc, được thắng thua bằng tiền. Mỗi người tham gia đánh bạc đặt một xệp là 400.000 đồng, người nào thua hết 400.000 đồng thì ván bài kết thúc. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày khi H, T và L đang đánh ván bài thứ 7 thì bị Công an phường B phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang.

Thu vật chứng tại chiếu bạc gồm: 1.190.000 đồng, 05 bộ bài tứ sắc, 01 chiếc chiếu và 03 cái dĩa nhựa. Thu trong người của H 170.000 đồng, T 700.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 110/CT-VKS ngày 24 tháng 9 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị H về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa,

- Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo đang sinh sống tại ấp P, xã P, huyện P, tỉnh Hậu Giang. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trương Ngọc L (H) cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn điều tra.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cho nên, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo không những xâm phạm trật tự công cộng do Nhà nước quản lý mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Cho nên, đề nghị xử phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng cải tạo không giam giữ.

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên đề nghị không áp dụng đối với bị cáo.

Về biện pháp tư pháp, đề nghị áp dụng các Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu, tiêu hủy: 05 bộ tài tứ sắc,

01 chiếc chiếu lát và 03 cái dĩa nhựa màu xanh trong 01 gói 01 gói niêm phongcó đóng dấu mộc đỏ tròn của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Long Xuyên; tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.190.000 đồng bị thu giữ; giao trả lại cho bị cáo 170.000 đồng; giao trả cho bà Đoàn Thị T 700.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Long Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

 [2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Nguyễn Thị H khai nhận, khoảng 15 giờ ngày 16/5/2018, bị cáo, Đoàn Thị T và Trương Ngọc L (H) đến phòng trọ của bà Chuong Thi K đánh bài tứ sắc, thắng thua bằng tiền. Mỗi người tham gia đánh bạc đặt một xệp là 400.000 đồng, người nào thua hết 400.000 đồng thì ván bài kết thúc. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi bị cáo, T và L đang đánh ván bài thứ 7 thì bị Công an phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang.

Trước đó, vào ngày 28/8/2017, bị cáo bị Ủy ban nhân dân phường B, thành phố L xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”. Bị cáo đã nộp phạt vào ngày 26/3/2018. 

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 16/5/2018 do Công an phường B, thành phố L lập; biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 05/7/2018 cùng sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường kèm theo do Công an thành phố L lập; vật chứng bị thu giữ gồm: 05 bộ tài tứ sắc, 01 chiếc chiếu lát, 03 cái dĩa nhựa màu xanh, số tiền 1.190.000 đồng thu giữ tại chiếu bạc và số tiền thu giữ trong người bị cáo, bà T; lời khai của Trương Ngọc L, Đoàn Thị T về việc có tham gia đánh bài tứ sắc với bị cáo tại nơi ở của bà Chuong Thi K vào ngày 16/5/2018, với số tiền đánh bạc khi bị bắt quả tang là 1.190.000 đồng; lời khai của bà Chuong Thi K về việc bị cáo, Trương Ngọc L, Đoàn Thị T có đánh bạc tại nhà bà K. Bà K không tham gia và không thu xâu; hồ sơ xử phạt vi phạt hành chính đối với bị cáo về hành vi đánh bạc theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0075343/QĐ-XPHC ngày 25/8/2017 của Ủy ban nhân dân phường B, thành phố L và biên lai thu tiền phạt số 0003953 ngày 26/3/2018.

Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo còn phù hợp với lời khai của Trương Ngọc L, Đoàn Thị T về hình thức đánh bạc. Theo đó, hình thức đánh bạc là đánh xệp, tính lệnh, mỗi lệnh là 1.000 đồng. Người chơi tới được 15 lệnh trở lên mới thắng tiền, còn dưới 15 lệnh thì không thắng tiền. Mỗi người tham gia bỏ ra 400.000 đồng. Người nào thắng thì lấy số tiền bằng với lệnh mà mình thắng bạc. Khi có người chơi thua hết 400.000 đồng thì chầu tiền vào thêm để chơi tiếp. Nếu không thì ngưng đánh bạc.

Như vậy, có căn cứ xác định bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc nhưng tiếp tục cùng T, L tham gia đánh bạc bằng hình thức thắng thua lẫn nhau với số tiền đánh bạc là 1.190.000 đồng.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua cách thức đánh bạc và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

 [3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, đánh bạc, trong đó có hình thức đánh tứ sắc được thua bằng tiền, là tệ nạn xã hội gây ra cảnh nhiều gia đình mất nhà cửa, phát sinh mâu thuẫn gia đình. Chính vì vậy, bên cạnh xử lý hành chính, pháp luật hình sự còn quy định đánh bạc là tội phạm và những người vi phạm, đáp ứng các yếu tố cấu thành tội phạm sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt.

Bị cáo đang ở tuổi trung niên, có đủ sức khỏe lao động tạo thu nhập nuôi sống bản thân nhưng vì hám lợi nên bị cáo đã tham gia vào việc đánh bạc. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến trật tự trị an tại địa phương. Cho nên, cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

 [4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Cho nên, không cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội cũng đảm bảo tính răng đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

 [5] Về hình phạt bổ sung, do bị cáo làm thuê kiếm sống, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [6] Về trách nhiệm của người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án, Trương Ngọc L, Đoàn Thị T có hành vi đánh bạc với bị cáo nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Cho nên, Trưởng Công an thành phố Long Xuyên xử phạt vi phạm hành chính đối với L, T là phù hợp quy định pháp luật.

Đối với Chuong Thi K, mặc dù, bị cáo, L, T đã sử dụng nơi ở của bà K để đánh bạc nhưng bà K không có hành vi tổ chức, thu lợi từ việc đánh bạc này. Cho nên, trách nhiệm hình sự không đặt ra đối với bà K là phù hợp quy định pháp luật.

 [7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- 05 bộ bài tứ sắc, 01 chiếc chiếu và 03 cái dĩa nhựa là các phương tiện phạm tội nhưng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Số tiền 1.190.000 đồng bị thu giữ là tiền do phạm tội mà có nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với số tiền 170.000 đồng thu giữ của bị cáo và số tiền 700.000 đồng thu giữ của bà T, do không có cơ sở xác định các khoản tiền này được sử dụng vào việc đánh bạc nên giao trả lại số tiền 170.000 đồng cho bị cáo và giao trả số tiền 700.000 đồng cho bà T theo điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

 [8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Đánh bạc;

Xử phạt: Nguyễn Thị H: 01 (một) năm cải tạo không giam giữ.

Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Nguyễn Thị H cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện P, tỉnh Hậu Giang giám sát và giáo dục.

Bị cáo được miễn khấu trừ thu nhập.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào các điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và cácđiểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong có đóng dấu mộc đỏ tròn của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cùng những đồ vật bên trong gồm:

+ 05 (năm) bộ bài tứ sắc (đã qua sử dụng);

+ 01 (một) chiếc chiếu lát (đã qua sử dụng);

+ 03 (ba) cái dĩa nhựa, màu xanh (đã qua sử dụng).

 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/9/2018 giữa Cơ quan Cảnh sátđiều tra Công an thành phố Long Xuyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L).

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 1.190.000 (một triệu, một trăm chín mươi nghìn) đồng trong số tiền 2.060.000 đồng theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 11/9/2018 của Phòng Kế toán Kho bạc Nhà nước A.

- Giao trả cho bị cáo số tiền 170.000 (một trăm bảy mươi nghìn) đồng trong số tiền 2.060.000 đồng theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 11/9/2018 của Phòng Kế toán Kho bạc Nhà nước A.

- Giao trả cho bà Đoàn Thị T số tiền 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng trong số tiền 2.060.000 đồng theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 11/9/2018 của Phòng Kế toán Kho bạc Nhà nước A.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, ông Trương Ngọc L có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bà Đoàn Thị T, bà Chuong Thi K (Chuong Thị K) là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 119/2018/HS-ST ngày 05/11/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:119/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về