TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 119/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/12/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Vào ngày 27 tháng 12 năm 2017, tại Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 578/2017/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2017 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 127/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 110/2017/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 12 năm 2017, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm: 1984. Địa chỉ: ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai.
2. Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm: 1984.
Địa chỉ: ấp T, xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai.
(Chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn T vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện ngày 10 tháng 10 năm 2017 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày: trên cơ sở tự nguyện, chị và anh Trần Văn T tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện X, tỉnh Đồng Nai vào ngày 12 tháng 10 năm 2006. Đây là hôn nhân lần đầu của cả hai.
Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc cho đến khi sinh con thứ hai thì phátsinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Trần Văn T thay đổi tính tình, sống không có trách nhiệm với vợ con, không lo làm ăn mà thường hay tụ tập bạn bè chơi bời và sử dụng ma túy. Chị và anh Trần Văn T không còn chung sống với nhau được khoảng hai năm. Đến nay, tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không thể tiếp tục tồn tại nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Trần Văn T.
Về con chung: chị và anh Trần Văn T có 02 con chung là cháu Trần NgọcN1, sinh ngày 05 tháng 9 năm 2008 và cháu Trần Ngọc N2, sinh ngày 04 tháng5 năm 2011. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng cả hai con chung, khôngyêu cầu anh Trần Văn T cấp dưỡng nuôi con.Về tài sản chung: chị không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: không có.
- Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Trần Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Trần Văn T vẫn không có mặt tại Tòa án, do đó không có lời khai.
- Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân nhân dân huyện Xuân Lộc: về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và sự chấp hành pháp luật của các đương sự cơ bản đúng pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: về quan hệ hôn nhân, cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Trần Văn T về con chung, giao cả hai con chung cho chị Nguyễn Thị L nuôi dưỡng, tạm miễn cấp dưỡng nuôi con cho anh Trần Văn T; về tài sản chung và nợ chung không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật: chị Nguyễn Thị L khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Trần Văn T hiện đang cư trú tại ấp T, xã X, huyện X và yêu cầu nuôi dưỡng con chung nên quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Xuân Lộc.
[2] Về tư cách tham gia tố tụng: chị Nguyễn Thị L khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Trần Văn T nên chị Nguyễn Thị L là nguyên đơn, anh Trần Văn T là bị đơn.
[3] Về thủ tục tố tụng: chị Nguyễn Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Trần Văn T đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn T tại phiên tòa là phù hợp với quy định tại khoản 1 và 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[4] Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn T tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo luật định nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Chị Nguyễn Thị L cho rằng cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc từ khi sinh con thứ hai, nguyên nhân là do anh Trần Văn T thay đổi tính tình, sống không có trách nhiệm với vợ con, không lo làm ăn mà thường hay tụ tập bạn bèchơi bời và sử dụng ma túy. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh Trần Văn T nhiều lần nhưng anh Trần Văn T vẫn không có mặt để làm việc và hòa giải hàn gắn tình cảm. Qua xem xét các tài liệu chứng cứ đã thu thập và được thẩm tra tại phiên tòa, xét thấy lời trình bày của chị Nguyễn Thị L phù hợp với lời khai của người làm chứng bà Trần Thị H là mẹ ruột của anh Trần Văn T, như vậy đã đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn T mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng, không thể hàn gắn tình cảm, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do vậy nên chấp nhận cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Trần Văn T là phù hợp.
[5] Về con chung: chị Nguyễn Thị L yêu cầu được nuôi dưỡng cả hai con chung là cháu Trần Ngọc N1, sinh ngày 05 tháng 9 năm 2008 và cháu Trần Ngọc N2, sinh ngày 04 tháng 5 năm 2011. Xét thấy, cháu Trần Ngọc N1 có nguyện vọng được sống cùng mẹ, cháu Trần Ngọc N2 còn nhỏ và là con gái nên cần thiết phải có sự chăm sóc của người mẹ nên giao cả hai cháu cho chị Nguyễn Thị L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu anh Trần Văn T cấp dưỡng nuôi con nên tạm miễn cấp dưỡng nuôi con cho anh Trần Văn T.
[6] Về tài sản chung: chị Nguyễn Thị L không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[7] Về nợ chung: chị Nguyễn Thị L trình bày không có nên không xem xét.
[8] Về án phí: chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơthẩm
[9] Xét thấy, nhận định của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc vềviệc giải quyết vụ án phù hợp với nhận định trên nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân gia đình;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
- Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Trần Văn T.
- Về con chung: giao cháu Trần Ngọc N1, sinh ngày 05 tháng 9 năm 2008 và cháu Trần Ngọc N2, sinh ngày 04 tháng 5 năm 2011 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.
Tạm miễn cấp dưỡng nuôi con cho anh Trần Văn T.
Anh Trần Văn T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung. Khi cần thiết, chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn T được quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con cũng như việc cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: không xem xét giải quyết.
- Về án phí: chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 000332 ngày 10 tháng 10 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc, chị Nguyễn Thị L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Chị Nguyễn Thị L và anh Trần Văn T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 119/2017/HNGĐ-ST ngày 27/12/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 119/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về