Bản án 118/2021/HNGĐ-ST ngày 30/09/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 118/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 139/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2021, về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 114/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Minh V, sinh năm 1980; địa chỉ: Ấp AA, thị trấn GH, huyện H, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).

Bị đơn: Chị Ngô Thị Hồng P, sinh năm 1979; địa chỉ thường trú: Ấp AA, thị trấn GH, huyện H, tỉnh Bạc Liêu; nơi đăng ký tạm trú: Số BB khóm CC, phường DD, thành phố BL, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Kim D, sinh năm 1956; địa chỉ: Ấp AA, thị trấn GH, huyện H, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 20/10/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Minh V trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Ngô Thị Hồng P tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường FF, thành phố BL, tỉnh Bạc Liêu và được Ủy ban nhân dân phường FF, thành phố BL cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 17/5/2004. Trong thời gian chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn do tính cách không hợp, thường xuyên cãi vã nên đã ly thân từ tháng 5 năm 2020. Do cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh V yêu cầu ly hôn với chị P.

Về con chung: Anh V xác định anh và chị P có 02 con chung tên Nguyễn Thái B, sinh ngày 06/9/2006 và Nguyễn Thái A, sinh ngày 19/9/2013. Hiện nay cháu B do anh V nuôi dưỡng, cháu A hiện do chị P nuôi dưỡng, anh V yêu cầu tiếp tục nuôi cháu B, đồng ý giao cháu A cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng; anh V không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh V xác định anh và chị P không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Ngô Thị Hồng P trình bày: Chị P đồng ý lời trình bày của anh V về quan hệ hôn nhân, con chung. Do cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đồng ý yêu cầu ly hôn của anh V.

Về con chung: Đồng ý giao cháu Nguyễn Thái B cho anh V tiếp tục nuôi dưỡng, yêu cầu tiếp tục nuôi cháu A, chị P không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị P xác định chị và anh V có tài sản chung nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: chị P xác định chị và anh V có nợ chung là nợ bà Lê Kim D số tiền 110.000.000 đồng. Ngày 05/8/2016 chị và anh V có tham gia chơi dây hụi 3.000.000 đồng do bà D làm chủ, tháng khui 01 lần, có 32 hụi viên, chị và anh V tham gia chơi 01 chưng; hốt hụi kỳ thứ nhất được số tiền 129.000.000 đồng, bỏ hụi hốt 800.000 đồng. Sau khi hốt hụi thì có đóng hụi chết nhưng không nhớ đóng được bao nhiêu kỳ. Bà D trực tiếp giao tiền cho chị Phiến.

Cùng ngày 05/8/2016 chị và anh V có tham gia chơi dây hụi 3.000.000 đồng do bà D làm chủ, tháng khui 01 lần, có 32 hụi viên, chị và anh V tham gia chơi 01 chưng; hốt hụi kỳ thứ nhất được số tiền 129.000.000 đồng, bỏ hụi hốt 800.000 đồng. Sau khi hốt hụi thì có đóng hụi chết nhưng không nhớ đóng được bao nhiêu kỳ. Bà D trực tiếp giao tiền cho chị P.

Sau khi hốt hụi chị P có đóng hụi chết nhiều lần, sau đó thì không có khả năng đóng nữa. Hai dây hụi trên hiện nay đã mãn, nhưng chị và anh V còn nợ tiền hụi chết của bà D là 110.000.000 đồng. Chị sử dụng số tiền này để kinh doanh tiệm sửa xe, mua bán phụ tùng xe tên BA; cuối năm 2017 thì không kinh doanh nữa do làm ăn thua lỗ. Chị sử dụng tiền hốt hụi của bà D để kinh doanh tiệm sửa xe, mua bán phụ tùng xe là để tạo thu trong gia đình, anh V cũng biết việc chơi hụi này và biết việc sử dụng nguồn tiền để kinh doanh tiệm sửa xe nêu trên, chi phí kinh doanh, lợi nhuận chị có ghi sổ báo cáo cho anh V xem hàng tháng. Do anh V đi làm, không thường xuyên ở nhà nên giao tiệm sửa xe nêu trên cho chị quản lý, kinh doanh, lợi nhuận dùng chi tiêu sinh hoạt trong gia đình, nuôi con ăn học. Đây là nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nên chị yêu cầu anh V phải có trách nhiệm trả cùng chị số nợ này cho bà D, yêu cầu nợ chia đôi.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Kim D trình bày:

Ngày 05/8/2016 bà mở dây hụi 3.000.000 đồng, tháng khui một lần, anh V và chị P tham gia 01 chưng, hốt chưng đầu tiên, bỏ hụi hốt 800.000 đồng; bà đã giao đủ tiền cho cho chị P nhận.

Cùng ngày 05/8/2016 bà mở dây hụi 3.000.000 đồng, tháng khui một lần, anh V và chị P tham gia 01 chưng, hốt chưng đầu tiên, bỏ hụi hốt 800.000 đồng; bà đã giao đủ tiền cho cho chị P nhận.

Sau khi hốt hụi thì chị P có đóng hụi chết cho bà nhiều lần nhưng không nhớ số tiền cụ thể. Ngày 30/01/2017 (âm lịch), bà và chị P có chốt nợ hụi với nhau, chị P và anh V còn nợ bà số tiền 120.000.000 đồng; sau khi viết biên nhận thì chị P có nhiều lần trả tiền nợ hụi cho bà với số tiền 10.000.000 đồng, hiện nay chị P và anh V còn nợ số tiền 110.000.000 đồng. Bà đã dùng tiền cá nhân của bà đóng hụi chết thay cho anh V và chị P nên bà yêu cầu anh V và chị P cùng có trách nhiệm trả cho bà số tiền hụi 110.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi. Hai dây này hiện nay đã mãn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án tới thời điểm này thấy rằng Thẩm phán, Thư ký đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Các đương sự đã thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 71, 72, 73 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 92, Điều 147, Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 27, Điều 37, Điều 55, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Công nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Minh V với chị Ngô Thị Hồng P. Giao cháu Nguyễn Thái B cho anh V tiếp tục nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Thái A cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng; anh V và chị P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét, giải quyết. Về tài sản chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về nợ chung: Buộc anh V trả cho bà D số tiền 55.000.000 đồng, buộc chị P trả cho bà D 55.000.000 đồng. Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm anh V phải chịu 300.000 đồng; án phí dân sự có giá ngạch anh V và chị P mỗi người chịu 2.750.000 đồng, bà D không phải chịu án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến tranh luận của đương sự; ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Minh V yêu cầu ly hôn với chị Ngô Thị Hồng P, khi thụ lý vụ án chị P cư trú tại ấp AA, thị trấn GH, huyện H, tỉnh Bạc Liêu nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của anh V yêu cầu ly hôn với chị P, Hội đồng xét xử xét thấy: Anh V và chị P tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2004, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường FF, thành phố BL, tỉnh Bạc Liêu và được Ủy ban nhân dân phường FF, thành phố BL cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 17/5/2004 nên hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Anh V và chị P đều xác định trong thời gian chung sống anh, chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống hôn nhân không hành phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh V yêu cầu ly hôn, chị P cũng đồng ý ly hôn. Xét thấy đây là ý kiến tự nguyện của đương sự, phù hợp quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn giữa anh V với chị P.

[2.2] Về con chung: Anh V và chị P xác định anh chị có 02 con chung tên Nguyễn Thái B, sinh ngày 06/9/2006, hiện do anh V nuôi dưỡng và Nguyễn Thái A, sinh ngày 19/9/2013, hiện do chị P nuôi dưỡng. Anh V và chị P thống nhất thỏa thuận giao cháu B cho anh V tiếp tục nuôi dưỡng, giao cháu A cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng. Tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 23/10/2020 cháu A có nguyện vọng sống chung với chị P, cháu B có nguyện vọng sống chung với anh V. Do đó, cần tiếp tục giao cháu A cho chị P nuôi dưỡng, giao cháu B cho anh V nuôi dưỡng để đảm bảo cuộc sống ổn định cho hai cháu và cũng phù hợp với nguyện vọng của các cháu.

[3] Về tài sản chung: Chị P và anh V không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về nợ chung: Xét yêu cầu của bà D yêu cầu anh V và chị P trả cho bà số tiền nợ hụi 110.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Việc tham gia chơi hụi giữa bà D với chị P là có sảy ra trên thực tế và được bà D, chị P thừa nhận nên căn cứ khoản 1 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự xác định đây là tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh. Bà D yêu cầu chị P và anh V cùng có trách nhiệm trả nợ cho bà khi ly hôn.

Chị P, anh V xác định khi còn chung sống anh, chị có kinh doanh tiệm sửa xe, do anh V đi làm không ở nhà thường xuyên nên giao cửa tiệm cho chị P quản lý, kinh doanh, lợi nhuận thu được chị P dùng để chi tiêu hoạt trong gia đình, nuôi con ăn, học và duy trì việc kinh doanh.

Chị P xác định ngày 05/8/3016 có tham gia chơi hụi do bà D làm chủ, chị sử dụng tiền hụi để kinh doanh tiệm sửa xe và và còn nợ tiền hụi chết là 110.000.000 đồng; anh V xác định việc chị P tham gia chơi hụi của bà D và còn nợ số tiền trên thì anh không biết nên không đồng ý cùng có trách nhiệm trả nợ với chị P.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mặc dù anh V không biết chị P tham gia chơi hụi của bà D và còn nợ số tiền hụi chết 110.000.000 đồng, nhưng số tiền hốt hụi chị P dùng để kinh doanh tiệm sửa xe nhằm tạo thu nhập trong gia đình, lợi nhuận dùng để chi trả cho sinh hoạt gia đình, nuôi con ăn, học; mặt khác đây là khoản nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân nên anh V phải có nghĩa vụ trả nợ chung với chị P theo quy định tại Điều 27 và khoản 2 Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đinh năm 2014.

Do đó, có căn cứ chia đôi nợ chung, anh V, chị P mỗi người phải có nghĩa vụ trả ½ số tiền nợ của bà D.

[5] Về lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ, do bà D tự nguyện không yêu cầu nên căn cứ Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử không xem xét hội dung này.

[6] Xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[7] Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm anh V phải chịu số tiền 300.000 đồng. Án phí giá ngạch anh V và chị P mỗi người phải chịu số tiền 2.750.000 đồng, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bạc Liêu. Bà Lê Kim D không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 5, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 39; khoản 1 Điều 92, Điều 147, Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27, 37, 55, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị định số 144/2006/CP ngày 27/11/2006 của Chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Công nhận sự tự nguyện thuận tình ly hôn giữa anh Nguyễn Minh V và chị Ngô Thị Hồng P.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thái B, sinh ngày 06/9/2006 cho anh Nguyễn Minh V tiếp tục nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Thái A, sinh ngày 19/9/2013 cho chị Ngô Thị Hồng P tiếp tục nuôi dưỡng.

- Anh V và chị P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét, giải quyết.

- Anh Nguyễn Minh V và chị Ngô Thị Hồng P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

4. Về nợ chung:

- Buộc anh Nguyễn Minh V trả cho bà Lê Kim D số tiền 55.000.000 đồng.

- Buộc chị Ngô Thị Hồng P trả cho bà Lê Kim D số tiền 55.000.000 đồng.

5. Về án phí:

- Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm buộc anh Nguyễn Minh V phải chịu 300.000 đồng, anh V đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007998 ngày 23/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H được chuyển thu án phí.

- Án phí dân sự có giá ngạch buộc anh Nguyễn Minh V và chị Ngô Thị Hồng P mỗi người phải chịu số tiền 2.750.000 đồng nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

6. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

7. Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

8. Án xử sơ thẩm công khai các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 118/2021/HNGĐ-ST ngày 30/09/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:118/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về