Bán án 118/2021/HNGĐ-ST ngày 26/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BÁN ÁN 118/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 143/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo số: 163/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 197/2021/QĐST – HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Thái Đức Q, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Số 162/3, tổ 57, khóm B, phường Đ, thành phố L, An Giang.

(Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thanh T, sinh năm 1983. Vắng mặt Địa chỉ: Số 162/3, tổ 57, khóm B, phường Đ, thành phố L, An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/3/2021 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn ông Thái Đức Q trình bày:

Năm 2008, ông và bà Nguyễn Thanh T quen biết, tìm hiểu và tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố L theo Giấy chứng nhận kết hôn cấp ngày 15/4/2008, đây là hôn nhân lần thứ nhất của ông và bà T. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không có tiếng nói chung và không còn chung sống với nhau nên tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng đã nhiều lần hàn gắn để lo cho con nhưng không có kết quả. Do đó, ông Q yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bà T. Về con chung: Có 02 con chung tên Thái Như N, sinh ngày 28/01/2009 và Thái Chân Q, sinh ngày 09/5/2015, hiện bà T đang chăm sóc, nuôi dưỡng các con nên ông Quốc đồng ý để bà T tiếp tục nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Bị đơn Nguyễn Thanh T không giao nộp tài liệu, chứng cứ chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa Hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn vắng mặt lần thứ hai, không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn Thái Đức Q đối với bị đơn Nguyễn Thanh T theo quy định tại Điều 51, Điều 56, Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Về con chung: Chị Trúc tiếp tục nuôi dưỡng nuôi 02 con chung theo Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Về cấp dưỡng, về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ ý kiến của các đương sự tại bản tự khai, Tòa án nhận định:

Về thủ tục tố tụng [1] Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn đăng ký thường trú tại thành phố L nên nguyên đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Tại biên bản xác minh tình trạng cư trú, Công an phường Đ, thành phố L xác nhận: Bị đơn Nguyễn Thanh T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 162/3, tổ 57, khóm B, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang. Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn hợp lệ nhưng bị đơn đã từ chối các quyền, cũng như không thực hiện nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[3] Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai, không lý do. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 228, điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

Về nội dung tranh chấp [1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ bản trích lục kết hôn số 65/KH.2008 ngày 15/4/2018 của Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố L, thể hiện giữa nguyên đơn, bị đơn tiến đến hôn nhân xuất phát từ sự tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, quá trình chung sống, nguyên đơn cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thiếu chia sẻ, cảm thông nhau trong cuộc sống vợ chồng nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng bị đơn không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Xét thấy, trong quan hệ hôn nhân vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, tin tưởng nhau và chia sẻ những khó khăn để vượt qua thử thách, đây là cơ sở vững chắc để bồi đắp cho hôn nhân, cho gia đình hạnh phúc. Giữa nguyên đơn, bị đơn đã có thời gian quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân xuất phát từ tình cảm yêu thương nhưng khi đã thành vợ chồng thì cả hai không xây dựng gia đình hạnh phúc , không tin tưởng nhau trong đời sống vợ chồng. Quá trình chuẩn bị xét xử, nguyên đơn vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn nhưng bị đơn không quan tâm, không có ý kiến, không trực tiếp đến Tòa để tham gia hòa giải để hàn gắn quan hệ hôn nhân với nguyên đơn, điều này thể hiện tình cảm vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, xét về tình nghĩa vợ chồng thì cả hai không chung sống nên không còn nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ và thực hiện các công việc trong gia đình. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn là có căn cứ, phù hợp với Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 19, Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

[2] Về con chung: Nguyên đơn, bị đơn có 02 con chung tên Thái Như N, sinh ngày 28/01/2009 và Thái Chân Q, sinh ngày 09/5/2015, hiện bị đơn đang chăm sóc, nuôi dưỡng và nguyên đơn cũng đồng ý để bị đơn tiếp tục nuôi con. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc học hành con cũng như xem xét điều kiện, hoàn cảnh của nguyên đơn và nguyện vọng của cháu N theo biên bản lấy lời khai ngày 29/3/2021, Hội đồng xét xử chấp nhận giao quyền cho bị đơn được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bị đơn cùng các thành viên gia đình không được cản trở nguyên đơn trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Nguyên đơn và bị đơn có quyền thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con theo quy định tại Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về cấp dưỡng: Nguyên đơn không phải cấp dưỡng nuôi con, do bị đơn không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn cho rằng không có tài sản chung, nợ chung nhưng bị đơn không có ý kiến phản đối nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228, điểm a, b khoản 1 Điều 238; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 19; Điều 51; Điều 56, Điều 57; Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Thái Đức Q được ly hôn với bà Nguyễn Thanh T. Quan hệ hôn nhân giữa ông Q và bà T chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

[2] Về con chung: Bà Nguyễn Thanh T được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung tên Thái Như N, sinh ngày 28/01/2009 và Thái Chân Q, sinh ngày 09/5/2015.

Bà T cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông Q trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Ông Q và bà T có quyền thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con theo quy định pháp luật.

[3] Về cấp dưỡng: Ông Q không phải cấp dưỡng nuôi con, do bà T không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm Nguyên đơn Thái Đức Q phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0007545 ngày 09/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L. Nguyên đơn đã thực hiện xong.

[6] Về quyền kháng cáo Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

(Giải thích điều 26 Luật Thi hành án dân sự) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bán án 118/2021/HNGĐ-ST ngày 26/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:118/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về