TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 118/2020/HS-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 110/2020/TLST-HS, ngày 09/9/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2020/QĐXXST-HS ngày 14/9/2020, đối với bị cáo:
Họ và tên: Bùi Văn K, sinh năm 1987 tại huyện P, tỉnh Thái Nguyên, tên gọi khác: không. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm C, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn H và bà: Dương Thị L. Có vợ Hoàng Thị T và có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2012. Tiền án: Không.
Tiền sự: Ngày 15/5/2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 12 tháng.
Nhân thân: Ngày 06/10/2017 bị cáo bị Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên quyết định xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/6/2020 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên.
(Có mặt tại phiên tòa).
- Người chứng kiến:
Ông Dương Văn H, sinh năm 1964.
Nơi thường trú: Xóm N, xã U, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.
(Vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 29/6/2020, tổ công tác Công an huyện P phối hợp cùng Công an xã U phát hiện bắt quả tang Bùi Văn K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu vực xóm G, xã U, huyện P. K tự giác giao nộp cho tổ công tác từ trong túi quần bên phải phía trước đang mặc ra 01 gói giấy bạc màu vàng, mở ra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng theo K khai nhận đây là ma túy ( Heroine) của K vừa đi mua về mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng (Ký hiệu A) theo quy định, sau đó đưa K cùng vật chứng về trụ sở Công an huyện P để điều tra làm rõ.
Hồi 20 giờ 10 phút ngày 29/6/2020, tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong (ký hiệu A) cân xác định số chất bột dạng cục màu trắng, được gói trong gói giâý bạc màu vàng thu giữ của Bùi Văn K có khối lượng là 0,203 gam. Cơ quan Cảnh sát điều tra lấy toàn bộ 0,203 gam chất bột dạng cục màu trắng niêm phong vào bì thư (ký hiệu A1) gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên để giám định.
Hồi 10 giờ 30 phút ngày 30/6/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với đồ vật, nhà ở, khu vực xung quanh nhà ở của Bùi Văn K tại Xóm C, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Kết quả không thu giữ được đồ vật, tài sản gì có liên quan đến vụ án.
Tại bản kết luận giám định số 871/KL- KTHS ngày 07/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,203 gam.
Tại cơ quan điều tra, Bùi Văn K khai nhận: Do bản thân nghiện chất ma túy nên K thường phải đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 29/6/2020, K đi bộ một mình từ nhà tại Xóm C, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực xóm K, xã X, huyện P, tỉnh Thái Nguyên để tìm mua ma túy, đến nơi K gặp một người đàn ông tự giới thiệu tên là Long rồi rủ K đi sang khu vực xóm N, xã Đ, huyện P để mua ma túy, K đồng ý và cùng Long đi bộ sang khu vực xóm N, xã Đ. Tại đây Long đưa cho K 200.000 đồng và bảo đi vào nhà một người theo Long nói tên là Chinh để hỏi mua ma túy. K cầm tiền và đi vào phía sau nhà của Chinh rồi đưa 200.000 đồng qua khe cửa sổ thì thấy phía trong nhà có một người K không nhìn rõ mặt cầm tiền và đưa lại cho K 01 gói ma túy được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng. K cất số ma túy vừa mua được vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi cùng Long đi về khu vực xóm G, xã U, huyện P, tỉnh Thái Nguyên để tìm nơi sử dụng, sau đó Long đi đâu K không rõ còn K đứng đợi Long, đến khoảng 12 giờ 50 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an huyện P phát hiện thu giữ vật chứng như đã nêu trên.
Tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn K khai nhận rõ hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra và bản cáo trạng nêu trên.
Bản cáo trạng số 119/CT-VKSPB, ngày 09/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Bùi Văn K về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, trong phần tranh luận vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện P đã trình bày lời luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn K phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Văn K từ 30 đến 36 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo; về xử lý vật chứng cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan, đúng người, đúng tội. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về gia đình và xã hội làm công dân có tốt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện P; Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện P; Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Bị cáo thừa nhận do nghiện ma tuý nên đã đi mua ma tuý về để sử dụng cho bản thân không bán lại cho ai, không nhằm mục đích gì khác. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, quá trình truy tố và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong, cân xác định trọng lượng ma túy, kết luận giám định, phù hợp với lời khai người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:
Hồi 12 giờ 50 phút ngày 29/6/2020, tại khu vực xóm G, xã U, huyện P, tỉnh Thái Nguyên, Bùi Văn K là người nghiện chất ma túy đang có hành vi tàng trữ trên người 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa ma túy loại Heroine có tổng khối lượng là 0,203 gam với mục đích để sử dụng cho bản thân, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện P phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng vật chứng.
Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
… c) Heroine......có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
...
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".
[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào được quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.
Về nhân thân bị cáo nghiện ma tuý, có nhân thân xấu, ngày 06/10/2017 bị cáo bị Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên quyết định xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Ngày 15/5/2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian là 12 tháng. Đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được coi là tiền sự với bị cáo. Sau khi trở về địa phương bị cáo không tu dưỡng để trở thành công dân tốt, tiếp tục cai nghiện ma túy mà lại lao vào con đường phạm tội. Xét thấy, cần có một mức án tương xứng với tội trạng mà bị cáo gây ra và cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội đồng thời nhằm giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và xác minh lời khai của bị cáo tại phiên tòa, xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xử lý vật chứng như sau:
Đối với vật chứng là 01 (một) phong bì niêm phong dán kín ký hiệu A1, bên trong có chứa 0,193 gam mẫu A1 được hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trong lời luận tội đối với bị cáo như đề nghị về tội danh, điều luật áp dụng, xử lý vật chứng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật cần chấp nhận.
[7] Về tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Căn cứ vào Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử ra Quyết định tạm giam bị cáo Bùi Văn K với thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.
[8] Về nguồn gốc số ma túy Heroine: Đối với người đàn ông tên Chinh theo K khai đã bán ma túy cho K và người đàn ông tên Long đã đưa tiền cho K để mua ma túy, những người đàn ông này K mới gặp lần đầu nên không biết rõ lai lịch, địa chỉ cụ thể ở đâu. Do vậy cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.
[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật hình sự. Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt chính: Xử phạt Bùi Văn K 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/6/2020.
3. Về tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: Quyết định tạm giam bị cáo Bùi Văn K với thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.
4. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong dán kín ký hiệu A1, bên trong có chứa 0,193 gam mẫu A1 được hoàn lại sau giám định.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/9/2020 giữa Công an huyện P và Chi cục Thi hành án dân sự huyện P).
5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Bùi Văn K phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.
6. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo Bùi Văn K, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 118/2020/HS-ST ngày 25/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 118/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về