Bản án 118/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội trộm cắp tài sản 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 118/2020/HS-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 11 năm 2020, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 106/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2020/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vương Xuân K, tên gọi khác: không có; sinh ngày: 16/7/1982 tại N. S, H. D. Nơi cư trú: Số 713/30/11, đường L, phường X, quận G, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vương Văn T và bà Nguyễn Thị H; vợ: Nguyễn Hoàng Phương T, sinh năm: 1992 và có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 19/3/2009, bị Tòa án nhân dân thị xã Uông Bí (nay là thành phố Uông Bí) xử phạt 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng, về tội “Chống người thi hành công vụ”; bị cáo bị tạm giam từ ngày 10/8/2020 đến ngày 27/10/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

*Bị hại: Anh Ngô Đức L, sinh năm: 2000; địa chỉ: Thôn 6, xã H Tây, thị xã Đ, tỉnh Q, vắng mặt (có đơn xin xử án vắng mặt).

*Ngưi làm chứng: Anh Trần Văn K, sinh năm: 2001; địa chỉ: Tổ 3, khu V, phường M, thị xã Đ, tỉnh Q, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 09/8/2020, Vương Xuân K đi bộ đến quán cà phê 198X ở tổ 3, khu 5, phường T, thành phố U để uống nước. Khi vào quán K thấy trong quán không có ai, trên bàn uống nước gần lối vào nhà kho có 01 chiếc máy tính xách tay hiệu DELL LATITUDE E5450 màu đen của anh Ngô Đức L, quản lý quán cà phê. K liền trộm cắp chiếc máy tính trên rồi đi bộ đến quán nước chè của bà Đỗ Thị T cách đó khoảng 100m ngồi uống nước. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, K trả tiền nước rồi xin bà T 01 túi nilon sáng màu đựng chiếc máy tính trên, nói là máy tính của K định mang đi sửa, sau đó K đi đến một cửa hàng điện thoại gần cổng bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển - Uông Bí mua 01 dây sạc máy tính rồi đi bộ đến nhà nghỉ trọ H. T của bà Phạm Thị Đ gần đó thuê phòng ngủ. Sau khi K rời khỏi quán, anh L đi về phát hiện mất máy tính xách tay, anh L kiểm tra camera an ninh của quán phát hiện một thanh niên trộm cắp chiếc máy tính, nên đã đến công an phường T trình báo.

Khoảng 11 giờ, ngày 10/8/2020 K tỉnh dậy trả phòng nhưng do không có tiền nên đã để lại chiếc máy tính cho bà Đ và nói với bà Đ khi nào có tiền sẽ đến lấy sau, bà Đ đồng ý. Khoảng 14 giờ cùng ngày K quay lại quán nước chè của bà T ngồi uống nước thì công an phường T đến mời về trụ sở công an phường làm việc. Tại đây K đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Ngày 10/8/2020 Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 chiếc máy tính xách tay hiệu DELL LATITUDE E5450 màu đen, 01 dây sạc máy tính do bà Phạm Thị Đ tự nguyện giao nộp.

Tại kết luận định giá tài sản số 34 ngày 13/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố U, kết luận: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu DELL LATITUDE E5450, màu đen, đã qua sử dụng có giá 4.033.000 đồng.

Tại cáo trạng số: 108/CT-VKSUB ngày 13/10/2020, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Vương Xuân K về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố.

- Bị hại anh Ngô Đức L vắng mặt tại phiên tòa, nhưng có lời khai trong hồ sơ phù hợp với lời khai của bị cáo.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vương Xuân K phạm tội: “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 và khoản 5 Điều 65 BLHS, xử phạt Vương Xuân K từ 06 đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, không có tài sản riêng, nên đề nghị HĐXX không áp dụng.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên không xem xét, đề cập.

- Về xử lý vật chứng và các tài sản bị tạm giữ: Đối với chiếc máy tính xách tay, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Ngô Đức L, nên không đề cập; đối với 01 dây sạc máy tính thu giữ của bị cáo không còn giá trị sử dụng, nên đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 căn cước công dân và 01 đòng hồ đeo tay là tài sản của bị cáo không liên quan đến tội phạm, nên trả lại bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với lời khai bị hại, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường do Công an thành phố U lập hồi 18 giờ 35 phút, ngày 10/8/2020, với vật chứng vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 15 giờ, ngày 09/8/2020 tại quán cà phê 198X thuộc tổ 3, khu 5, phường T, thành phố U, tỉnh Q, Vương Xuân K là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã có hành vi lén lút trộm cắp của anh Ngô Đức L 01 máy tính xách tay hiệu DELL LATITUDE E5450, màu đen, đã qua sử dụng trị giá 4.033.000 đồng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về Hình phạt:

[3.1] Về hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu của công dân, gây mất an ninh, trật tự, làm ảnh hưởng xấu đến cộng đồng dân cư. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức đầy đủ về hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì coi thường pháp luật, thích hưởng thụ trên thành quả lao động của người khác, bị cáo đã phạm tội; mặc dù bị cáo là người có nhân thân xấu đã bị kết án về tội “Chống người thi hành công vụ”, nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà lại phạm tội. Vì vậy HĐXX sẽ xem xét, cân nhắc khi quyết định hình phạt đối với bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục bị cáo.

-Tình tiết tăng nặng: không có.

-Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn, hối cải, sau khi phạm tội đã đầu thú, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 §iÒu 51 Bộ luật hình sự.

Từ những đánh giá, phân tích nêu trên. Căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX xét thấy không cần bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo cải tạo, giáo dục tại địa phương nơi bị cáo cư trú để bị cáo thấy được tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ (năm triệu đồng) đến 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Tại phiên tòa bị hại vắng mặt, nhưng trong giai đoạn điều tra bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên HĐXX không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: 01 máy tính xách tay hiệu DELL LATITUDE E5450 bị cáo trộm cắp của anh L, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh L, nên không xem xét; 01 dây xạc máy vi tính có giá trị không lớn và tại phiên tòa bị cáo không muốn nhận lại, nên tịch thu tiêu hủy; 01 căn cước công dân và 01 đồng hồ đeo tay là của bị cáo không liên quan đến tội phạm nên trả lại bị cáo.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố 

Bị cáo Vương Xuân K phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vương Xuân K 09 (chín) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Vương Xuân K cho Ủy ban nhân dân phường X, quận G, thành phố H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo K có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường X, quận G, thành phố H trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2, điểm a, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 xạc máy tính ký hiệu 9711-0619-A02; trả lại bị cáo 01 căn cước công dân mang tên Vương Xuân K số 030082010952 và 01 đồng hồ màu đen, nhãn hiệu Nibosi, mặt hình tròn, dây đeo bằng kim loại, (Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng, đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/10/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố Uông Bí với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Vương Xuân K phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 118/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội trộm cắp tài sản 

Số hiệu:118/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về