TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 118/2020/HS-PT NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 27 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 113/2020/TLPT-HS ngày 20 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo: Vũ Thế Ch do có kháng cáo của bị cáo và bị hại Vũ Văn L đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2020/HS-ST ngày 03 tháng 9 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Đắk Song.
Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo: Vũ Thế Ch, sinh năm 1985 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Tổ dân phố Q, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Đức C và bà Mai Thanh B; có vợ là Nguyễn Thị L và 02 con; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01-4-2020 đến ngày 11-6-2020; tại ngoại - Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Vũ Thế Ch: Ông Nguyễn Tiến Thịnh, Luật sư Văn phòng luật sư Nguyễn Bách Khoa thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk; đia chỉ: Số 306, đường Nguyễn Tất Thành, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk - Có mặt.
Bị hại: Anh Vũ Văn L; địa chỉ: Tổ dân phố W, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - Có mặt.
Người làm chứng:
- Chị Phan Thị N; địa chỉ: Tổ dân phố W, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - Có mặt:
- Ông Vũ Xuân M; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - Có mặt:
- Ông Vũ Đức C; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt:
- Chị Nguyễn Thị L; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - Có mặt:
- Anh Vũ Quang N; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt:
- Anh Ngô Hoàng H; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt:
- Anh Nguyễn Văn T; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - Vắng mặt:
- Anh Hoàng Văn H; địa chỉ: Tổ dân phố Q, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - Có mặt.
Người giám định: Ông Hoàng Văn Th, Giám định viên thuộc Trung tâm Pháp y - Sở Y tế tỉnh Đ - Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 13-02-2020, anh Vũ Văn L lên vị trí đất tại Tổ dân phố Q, thị trấn Đ, huyện Đ nổ máy khoan trước đó đã thuê của anh Ngô Hoàng H, để khoan giếng lấy nước sinh hoạt. Do diện tích đất này đang tranh chấp với gia đình ông Vũ Đức C nên khi nghe tiếng máy nổ, ông C cùng với con trai là Vũ Thế Ch và Vũ Xuân M chạy đến diện tích đất này để ngăn cản việc anh L và anh H khoan giếng. Ông C đi trước còn Ch và M đi sau. Trước khi đi, Vũ Thế Ch lấy 01 con dao dài 40cm, trong đó cán dao làm bằng gỗ dài 12cm, lưỡi dao làm bằng kim loại, mũi bằng (dạng dao bài) và 01 cái búa đinh dài 24cm, mang theo đi đến diện tích đất tranh chấp, mục đích là để phòng vệ nếu xẩy ra đánh nhau. Sau khi tới nơi, Ch cầm dao và búa đinh đi vào bãi đất trống nằm bên cạnh diện tích đất tranh chấp, M đứng ngoài không vào, ông C cũng đi vào và tiến tới vị trí hàng rào lưới B40 mà gia đình anh L rào để ngăn cách giữa 02 diện tích đất. Ông C dùng tay giật hàng rào lưới B40 và giật tấm bạt nhựa được phủ lên dàn máy khoan giếng, M cũng đi vào nhưng chỉ đứng quan sát. Thấy ông C giật lưới và bạt thì anh L đi đến ngăn cản, kéo ông C ra, Vũ Thế Ch thấy vậy nên đi lại gần vị trí anh L. Cùng thời điểm này, vợ anh L là chị Phạm Thị N đi xe máy tới rồi cùng anh L cãi nhau với ông C. Khi anh L, chị N tới gần Ch thì Ch cầm con dao bằng tay trái, vung lên chém về phía anh L 01 phát theo tư thế đứng đối diện với anh L nhưng không trúng. Thấy Ch cầm dao chém, anh L quay người bỏ chạy nên Ch cầm dao đuổi theo chém tiếp 01 phát thì lưỡi dao trúng vào vùng sau vai phải của anh L gây thương tích. Anh L tiếp tục bỏ chạy thì Ch tiếp tục đuổi theo chém thêm nhiều phát nữa nhưng không trúng, sau đó thì dừng lại. Lúc này anh L lấy 01 chai nước dạng chai nhựa loại 500ml, bên trong chứa dung dịch chất lỏng màu vàng cam (gồm hỗn hợp nước giấm ngâm với ớt, tỏi, gừng xay nhuyễn mà gia đình anh L thường dùng để làm sạch lòng heo), đầu chai nước được đục lỗ, bóp mạnh làm chất lỏng xịt vào người Vũ Thế Ch làm Ch bị cay mắt. Sau khi bị anh L xịt chất lỏng, Vũ Thế Ch quay lại vị trí nơi chị N đang đứng thì bị chị N xịt dung dịch chất lỏng màu vàng cam vào người nên Ch cầm dao chém về phía chị N nhưng không trúng. Lúc này, anh H và những người chứng kiến vào can ngăn, lấy con dao trên tay Ch rồi đưa đến trình diện tại cơ quan công an, anh L được đưa đến Trung tâm Y tế huyện Đ để điều trị.
Bản Kết luận Giám định pháp y về thương tích số: 98/TgT ngày 09-3-2020 của Trung tâm Pháp y - Sở Y tế tỉnh Đ kết luận: Anh Vũ Văn L bị gãy xương đòn bên phải, tỷ lệ tổn thương cơ thể: 08% sức khỏe; gãy mỏm cùng vai bên phải, tỷ lệ 06% sức khỏe cộng lùi 5,52% sức khỏe; sẹo vết thương phần mềm vùng bả vai phải, kích thước trung bình, tỷ lệ 02% sức khỏe, cộng lùi bằng 1,73% sức khỏe. Tổng tỷ lệ phần trăm thương tích là 15,25% sức khỏe, làm tròn bằng 15% sức khỏe.
Bản kết luận giám định số: 428/C09C(Đ4) ngày 18-5-2020 của Phân viện Khoa học hình sự Bộ Công an tại thành phố Đ kết luận: Chất lỏng màu da cam đựng trong 02 chai nhựa trong suốt, ký hiệu số “1”, “2” gửi đến giám định đều tìm thấy chất “Capsaicin”, không tìm thấy các chất độc thường gặp. “Capsaicin” là một ancaloit có trong quả ớt, có tác dụng khiến ớt có vị cay nóng.“Capsaicin” gây nóng và bỏng rát khi tiếp xúc với da người. Đối với 01 chiếc áo phông cổ tròn màu vàng mà Vũ Thế Ch cho rằng bị anh L, chị N xịt chất lỏng màu cam vào thì không tìm thấy các chất độc thường gặp.
Bản án số: 45/2020/HS-ST ngày 03 tháng 9 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Đắk Song đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Vũ Thế Ch phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Thế Ch 02 năm 06 tháng tù. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.
Ngày 15-9-2020, bị cáo Vũ Thế Ch kháng cáo đề nghị hủy án sơ thẩm để điều tra lại theo quy định của pháp luật với nội dung: Hành vi phạm tội của bị cáo xuất phát từ lỗi của bị hại từ việc tranh chấp đất đai và kết luận giám định pháp y không đúng quy định.
Ngày 18-9-2020, bị hại Vũ Văn L kháng cáo đề nghị xem xét lại có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội; áp dụng thêm điểm h khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự và xem xét về mức hình phạt đối với với bị cáo Vũ Thế Ch.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Vũ Thế Ch không thừa nhận Tòa án nhân dân huyện Đắk Song xử phạt bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự và giữ nguyên kháng cáo.
Bị hại giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Việc giám định không hợp pháp, tại phiên tòa sơ thẩm giám định viên có khẳng định phim Xquang chụp ngoài giờ hành chính thì không có giá trị trong việc giám định tỷ lệ thương tích. Biên bản hỏi cung bị can để trống tỷ lệ thương tích, các chứng từ thanh toán không hợp lệ. Bị hại khám ở Bệnh viện CR nhưng chụp phim tại Bệnh viện chấn thương chỉnh hình. Cơ quan điều tra chưa làm rõ mối quan hệ giữa anh L và anh H, chưa điều tra tình tiết bị cáo đầu thú, có phạm tội trong trường hợp tinh thần bị kích động mạnh hay không, cơ quan điều tra không mời cháu H1 để làm rõ việc cháu H1 có quay phim diễn biến sự việc hay không. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, hủy bản án sơ thẩm để điều tra bổ sung.
Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2020/HS-ST ngày 03 tháng 9 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Đắk Song đã kết án bị cáo Vũ Thế Ch về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của bị hại, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện quá trình tranh chấp đất đai giữa bị hại và bị cáo có ông Vũ Văn C và ông Vũ Văn M. Tuy nhiên, quá trình điều tra đã tiến hành đối chất làm rõ và không chứng minh có đồng phạm trong vụ án mà cụ thể bị cáo Ch đã tự ý cầm dao gây thương tích cho bị hại thì ông C và ông M không biết cũng như không có sự bàn bạc, thống nhất; khi xảy ra cải vã, bị cáo Ch tự ý một mình đuổi đánh bị hại mà không có sự chỉ đạo cũng như tiếp nhận ý chí của ông C và ông M. Mặt khác, bị hại cho rằng động cơ, mục đích của bị cáo Ch cùng ông C và ông M là chiếm đoạt tài sản của gia đình bị hại và đề nghị áp dụng điểm h khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra thì bị cáo, ông C và ông M không chiếm đoạt bất kỳ tài sản nào của bị hại. Bị hại còn đề nghị xem xét mức hình phạt đã áp dụng đối với bị cáo, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt mức hình phạt 02 năm 06 tháng tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bởi lẽ, sau khi phạm tội bị cáo đã khắc phục hậu quả, thành khẩn khai báo và cha mẹ đẻ của bị cáo là người có công với cách mạng. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị hại không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ mới cho nội dung kháng cáo của mình. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị hại.
[3]. Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ là biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Đ xác định tại sổ mục kê và bản đồ địa chính thì đất mà bị cáo đang tranh chấp với bị hại thuộc quyền sở hữu của bị hại Vũ Văn L nên bị hại canh tác trên đất không ảnh hưởng đến bị cáo. Ngoài ra, kết luận giám định pháp y phù hợp với vết thương, cơ chế hình thành và vật gây ra vết thương. Kết luận căn cứ vào hồ sơ bệnh án của Trung tâm Y tế huyện Đ nơi tiếp nhận ban đầu và của Bệnh viện đa khoa tỉnh Đ đã ghi nhận đầy đủ các thương tích của bị hại. Về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra đều đảm bảo theo quy định của pháp luật. Mặt khác, lời khai của bị hại phù hợp với lời khai của những người làm chứng được cơ quan điều tra thu thập được lưu trong hồ sơ vụ án thể hiện việc bị hại dùng dung dịch nước pha ớt bột tạt vào bị cáo sau khi bị cáo có hành vi dùng dao gây thương tích cho bị hại. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm các tài liệu, chứng cứ mới đến kháng cáo của mình. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và luận cứ bào chữa của luật sư bảo vệ cho bị cáo về việc hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.
Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tại phiên tòa có căn cứ nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[4]. Do kháng cáo của bị cáo Vũ Thế Ch không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5]. Đối với các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Thế Ch và bị hại Vũ Văn L, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2020/HS-ST ngày 03 tháng 9 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Đắk Song. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Vũ Thế Ch 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, tính từ ngày bị bắt thi hành án, được trừ thời gian bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01-4-2020 đến ngày 11-6-2020.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Vũ Thế Ch phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 118/2020/HS-PT ngày 27/11/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 118/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về