Bản án 118/2020/HNGĐ-ST ngày 17/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 118/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 17 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tỷ Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 269/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 104/2020/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị N; địa chỉ: Thôn 5, xã Ch, huyện Tỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Trần Văn T; địa chỉ: Thôn 5, xã Ch, huyện Tỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 23/02/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Đỗ Thị N (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị N và anh Trần Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ch , huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 10 tháng 02 năm 1999 (Giấy chứng nhận kết hôn số: 01/1999). Quá trình chung sống, vợ chồng hòa Tận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu Tẫn. Nguyên nhân mâu Tẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, lao động và nuôi dạy con chung. Mặt khác, anh T mải chơi, không quan tâm, chăm lo cho gia đình. Chị N đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh T không thay đổi mà còn chửi mắng, xúc phạm chị dẫn đến tình cảm vợ ngày càng thờ ơ, lạnh nhạt. Mâu Tẫn vợ chồng đã được gia đình và Ch quyền địa phương hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu Tẫn, chị N và anh T hiện đã sống ly thân nhau. Chị N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trần Văn T.

Về con chung: Chị Đỗ Thị N khai: Chị và anh Trần Văn T có 04 con chung là Trần Thị H, sinh ngày 02 tháng 6 năm 2000; Trần Thị H, sinh ngày 08 tháng 7 năm 2002; Trần Thị T, sinh ngày 09/9/2004 và Trần Văn M, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2006. Hiện chị N đang nuôi cả 04 con. Trường hợp ly hôn, chị N có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con là Trần Thị T và Trần Văn M. Con tên Trần Thị H và Trần Thị H hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đỗ Thị N trình bày chị và anh Trần Văn T tự thỏa Tận giao nhận cho nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Đỗ Thị N khai: Chị và anh Trần Văn T có tài sản chung nhưng tự thỏa Tận phân chia nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Trần Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật song đến ngày mở phiên tòa, anh T vẫn không có mặt để trình bày ý kiến về việc chị N xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do Ch đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N và anh T. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị N và anh Trần Văn T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình xử cho chị N và anh T được ly hôn. Về con chung: Chị Đỗ Thị N và anh Trần Văn T có 04 con chung là Trần Thị H, sinh ngày 02 tháng 6 năm 2000; Trần Thị H, sinh ngày 08 tháng 7 năm 2002; Trần Thị T, sinh ngày 09 tháng 9 năm 2004 và Trần Văn M, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2006. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh hiện trạng nuôi con, khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên, nguyện vọng của con chung và căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Tòa án giao cho chị Đỗ Thị N trực tiếp nuôi dưỡng 02 con tên Trần Thị T, sinh ngày 09 tháng 9 năm 2004 và Trần Văn M, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2006 cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Con tên Trần Thị H và Trần Thị H hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung, nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban T vụ Quốc Hội về mức T, miễn, giảm, T, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Đỗ Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Trần Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do Ch đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Đỗ Thị N và anh Trần Văn T.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị N và anh Trần Văn T xác lập năm 1999 là hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa Tận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu Tẫn. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện nguyên nhân mâu Tẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong lao động, trong sinh hoạt và nuôi dạy con chung dẫn đến vợ chồng ngày càng thờ ơ lạnh nhạt và không quan tâm đến nhau. Mâu Tẫn vợ chồng chị N, anh T đã được gia đình và Ch quyền địa phương hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu Tẫn, hiện chị N, anh T đã sống ly thân nhau. Chị N xin ly hôn anh T, Tòa án đã triệu tập anh T nhiều lần để trình bày ý kiến về việc chị N xin ly hôn nhưng anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Đỗ Thị N và anh Trần Văn T được ly hôn.

[3] Về con chung: Chị Đỗ Thị N và anh Trần Văn T có 04 con chung là Trần Thị H, sinh ngày 02 tháng 6 năm 2000; Trần Thị H, sinh ngày 08 tháng 7 năm 2002; Trần Thị T, sinh ngày 09 tháng 9 năm 2004 và Trần Văn M, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2006. Hiện chị N đang nuôi cả 04 con. Trường hợp ly hôn, chị N có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con là Trần Thị T và Trần Văn M. Con tên Trần Thị H và Trần Thị H hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi thì cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét thấy, từ khi sống ly thân đến nay, chị N là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con và vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt. Cháu Trần Thị T và Trần Văn M đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Vì vậy giao cho chị N được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Thị T, sinh ngày 09 tháng 9 năm 2004 và Trần Văn M, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2006 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định pháp luật. Con tên Trần Thị H và Trần Thị H hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đỗ Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[5] Về tài sản chung: Chị Đỗ Thị N khai chị và anh Trần Văn T có tài sản chung nhưng tự thỏa Tận phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban T vụ Quốc Hội về mức T, miễn, giảm, T, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Đỗ Thị N phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban T vụ Quốc Hội về mức T, miễn, giảm, T, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đỗ Thị N và anh Trần Văn T.

2. Về con chung: Giao cho chị Đỗ Thị N trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Trần Thị T, sinh ngày 09 tháng 9 năm 2004 và Trần Văn M, sinh ngày 20 tháng 11 năm 2006 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đỗ Thị N phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị N đã nộp theo biên lai T tạm ứng án phí số 0000806 ngày 24 tháng 4 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Đỗ Thị N đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Chị Đỗ Thị N, anh Trần Văn T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả Tận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 118/2020/HNGĐ-ST ngày 17/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:118/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về