TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 118/2019/HSST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27/11/2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 112/2019/HSST ngày 06/11/2019 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Ái N. Tên gọi khác: Đen; Sinh ngày 07/10/1986; Tại: TP. Đ. Nơi ĐKHKTT: Tổ 25, phường Hòa M, quận L, thành phố Đ; Chỗ ở hiện nay: K266/H79/ 45 đường Hoàng D, phường B, quận H, thành phố Đ; Nghề nghiệp: Không.
- Tiền án: Năm 2016 bị Tòa án nhân dân quận T xử phạt 03 năm tù; chấp hành xong án phạt tù vào ngày 05/10/2018.
- Con ông Phạm Văn A (Chết) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959 (còn sống). Bị cáo là con thứ hai trong gia đình có 03 (ba) anh em. Bị cáo đã có vợ là Vũ Thị L sinh năm 1990 và 01 con nhỏ sinh năm 2011; hiện hai vợ chồng đang ly thân.
- Bị can bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/8/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người chứng kiến: Ông Trần Văn T – Sinh năm: 1954; Địa chỉ: K152/9 Trưng N, phường B, quận H, TP Đ. (vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Khoảng 14 giờ 00 ngày 23.8.2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Ái N dùng số điện thoại của mình là: 0905.712.430 gọi đến số điện thoại 0905.429.932 của một người tên T (quen biết ngoài xã hội, không rõ nhân thân lai lịch) để hỏi mua 200.000 đồng ma túy đá, T đồng ý và hẹn giao ma túy cho N tại quán cà phê 197 đường Nguyễn H, TP. Đ. Sau đó, có 01 nam thanh niên (không rõ lai lịch) đi đến giao cho N 01 gói thuốc lá hiệu White house, bên trong có chứa 01 gói nilong chứa ma túy đá. N cất gói thuốc trên vào túi quần phía trước, bên phải đang mặc rồi đi bộ về. Đến khoảng 15 giờ 00 cùng ngày, khi đến trước số nhà K266/H79/45 Hoàng D, phường B, quận H, TP. Đ thì bị phát hiện bắt quả tang .
Theo bản án số 109/2016/HSST ngày 24/9/2016 của Tòa án nhân dân quận Thanh K, TP. Đ xử phạt Nguyễn Ái N 03 năm tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đến ngày 05/10/2018, N đã chấp hành xong án phạt tù. Tuy nhiên, Nguyễn Ái N chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục có hành vi phạm tội như nêu trên.
* Vật chứng thu giữ của Nguyễn Ái N:
- 01 gói nilong màu trắng được hàn kín, kích thước 2,5cm x 02cm, bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng, được thu giữ trong gói thuốc lá hiệu White house, niêm phong ký hiệu A.
-01điện thoại di động có dòng chữ Iphone, màu vàng, số Imei:
354393065350648, chứa sim số 0905.712.430.
- 01 điện thoại di động có dòng chữ Nokia màu đen, số Imei: 355820095818656 và 355828093818651, chứa sim số 0904474009 và 0775456120.
- Tiền VNĐ: 500.000 đồng.
* Theo Kết luận giám định số: 245/GĐ-MT ngày 30/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Đ, kết luận:
- Mẫu tinh thể màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu A gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng tinh thể mẫu A: 0,046 gam.
- Hoàn lại đối tượng giám định: 0 gam mẫu A và toàn bộ vỏ bao gói mẫu.
- Mẫu ký hiệu A đã được sử dụng hết để tiến hành các phương pháp giám định.
*Bản cáo trạng số 117/CT - VKS ngày 04/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo :
-Nguyễn Ái N về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
*Tại phiên tòa :
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị HĐXX áp dụng:
- Điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Ái N; Xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù.
* Về Xử lý vật chứng:
+ Tuyên tịch thu tiêu hủy: Hoàn lại sau giám định: 0 gam mẫu A và toàn bộ vỏ bao gói mẫu .
+Tuyên sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động có dòng chữ Iphone, màu vàng, số Imei: 354393065350648, chứa sim số 0905.712.430.
+Tuyên trả lại cho bị cáo N: 01 điện thoại di động có dòng chữ Nokia màu đen, số Imei: 355820095818656 và 355828093818651, chứa sim số 0904474009 và 0775456120 và số tiền 500.000 đồng.
- Đối với thanh niên tên T bán ma túy cho N và nam thanh niên giao ma túy cho N, hiện nay chưa xác định dược họ tên địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.
- Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ái N khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng truy tố là đúng người đúng tội, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau :
[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa; bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người đã tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Tại phiên tòa người chứng kiến vắng mặt. Kiểm sát viên đề nghị xét xử vắng mặt; vì họ đã có lời khai và không gây ảnh hưởng cho Hội đồng xét xử; Nên Hội đồng tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định pháp luật.
[2] Về hành vi bị truy tố, xét xử của bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt quả tang và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở để xác định:
Khoảng 15 giờ 00 ngày 23.8.2019, tại trước số nhà K266/H79/43 Hoàng D, phường B, quận H, TP. Đ, tổ tuần tra thuộc đội Cảnh sát Công an thành phố về ma túy phối hợp với Công an phường Bình Hiên phát hiện bắt quả tang Nguyễn Ái N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với khối lượng 0,046 gam.
Theo bản án số 109/2016/HSST ngày 24/9/2016 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, TP. Đ xử phạt Nguyễn Ái N 03 năm tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đến ngày 05/10/2018, Nông đã chấp hành xong án phạt tù. Tuy nhiên, Nguyễn Ái N chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục có hành vi phạm tội như nêu trên.
Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[2.1] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy hành vi bị cáo rất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất Ma túy của nhà nước, gây tệ nạn nghiện hút trong cộng đồng ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội. Bị cáo là đối tượng thường xuyên dùng ma túy nên biết rõ tác hại của ma túy. Ma túy làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thần kinh gây ra ảo giác là tác nhân gây ra các tệ nạn xã hội được nhà nước quản lý nghiêm; nhưng bị cáo vẫn bất chấp lao vào con đường phạm tội. Năm 2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Thanh K, thành phố Đ xử phạt với mức án 03 năm tù giam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; bị cáo ra tù vào ngày 05/10/2018 chưa được xóa án tích mà lại phạm tội đây là tình tiết định khung và bản thân bị cáo không lấy đó là bài học nhưng lại tiếp tục phạm tội và coi thường pháp luật.
Nên cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo một thời gian để giáo dục răn đe bị cáo trở thành con người có ích cho xã hội.
[3] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên được áp dụng tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Xét Về Tình tiết tăng nặng: Không có.
[5] Về quyết định hình phạt chính: Căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, căn cứ các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo. Hành vi của bị cáo Nguyễn Ái N đã đủ yếu tố cầu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[6] Về Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 46, 47 Bộ luật hình sự.
+ Tuyên tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định.
+Tuyên sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động có dòng chữ Iphone, màu vàng, số Imei: 354393065350648, chứa sim số 0905.712.430.
+Tuyên trả lại cho bị cáo N: 01 điện thoại di động có dòng chữ Nokia màu đen, số Imei: 355820095818656 và 355828093818651, chứa sim số 0904474009 và 0775456120 và số tiền 500.000 đồng.
[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đến 50.000.000đồng ”. Xét thấy các bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản, để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về biện pháp tư pháp: Không.
[9] Đối với thanh niên tên tý bán ma túy cho N và nam thanh niên giao ma túy cho N, hiện nay chưa xác định dược họ tên địa chỉ, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau.
[10] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố : Bị cáo Nguyễn Ái N phạm tội “ Tàng trữ trái phép chât ma túy” Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 Bộ luật hình sự .
2. Hình phạt: Xử phạt Bị cáo Nguyễn Ái N 15 (Mười lăm) tháng tù giam; Thời gian thụ hình tính từ ngày 23/8/2019.
3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 46,47 Bộ luật hình sự.
Tuyên tịch thu tiêu hủy: Hoàn lại sau giám định: 0 gam mẫu A và toàn bộ vỏ bao gói mẫu .
+Tuyên sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động có dòng chữ Iphone, màu vàng, số Imei: 354393065350648, chứa sim số 0905.712.430.
+Tuyên trả lại cho bị cáo N: 01 điện thoại di động có dòng chữ Nokia màu đen, số Imei: 355820095818656 và 355828093818651, chứa sim số 0904474009 và 0775456120 và số tiền 500.000 đồng.
(Toàn bộ các vật chứng hiện Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 /11/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận Hải Châu và Cục thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng).
4. Án phí HSST: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự ; Điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu và quản lý sử dụng án phí và lệ phí; bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).
5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331,332,333 Bộ luật tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 118/2019/HSST ngày 27/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 118/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về