Bản án 118/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 118/2018/HS-ST NGÀY 22/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 108/2018/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2018/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Văn T (tên gọi khác: Hà), sinh năm 1974 tại H. Nơi cư trú: Thôn 2, xã M, huyện T, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn Cân và bà Đỗ Thị Chẫng (đều đã chết); chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 01 tháng 6 năm 2018 đến ngày 07 tháng 6 năm 2018 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Vũ Văn T: Ông Nguyễn Văn Tú Ngọc - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố H; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Đoàn Hồng D, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn 1, xã L, huyện T, thành phố H; vắng mặt

- Người làm chứng:

1. Anh Cù Văn X; vắng mặt.

2. Anh Phạm Thanh N; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy nên Vũ Văn T thường sang khu vực đường tàu nội thành H mua ma túy của người không quen biết về sử dụng. Vũ Văn T bắt đầu bán ma túy cho người nghiện từ giữa tháng 5 năm 2018, loại ma túy Vũ Văn T bán là loại heroine với giá 200.000 đồng/gói.

Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 17 tháng 5 năm 2018 Vũ Văn T đang ở nhà tại thôn 2, xã M, huyện T, thành phố H thì nhận được điện thoại của Đoàn Hồng D, sinh năm 1984, nơi cư trú: Thôn 1, xã L, huyện T, thành phố H hỏi mua 01 gói ma túy (heroine). Vũ Văn T đồng ý bán với giá 200.000 đồng/gói và hẹn Đoàn Hồng D đến khu vực đường liên xã thuộc thôn 1B, xã Lưu Kiếm, huyện T, thành phố H để mua bán. Tại đây Vũ Văn T gặp Đoàn Hồng D đi cùng với Cù Văn X, sinh năm 1986, trú tại xã Lưu Kiếm, huyện T, thành phố H, Vũ Văn T đã bán cho Đoàn Hồng D 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng.

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 29/5/2018 Vũ Văn T đi sang khu vực đường tàu nội thành H mua 01 gói ma túy heroine với giá 400.000 đồng của một người đàn ông không quen biết. Vũ Văn T mang về nhà chia thành 04 gói với mục đíchđể sử dụng và bán lại cho người nghiện khác. Đến khoảng 11 giờ 20 phút ngày 30 tháng 5 năm 2018 Vũ Văn T đang ở nhà tại thôn 2, xã M, huyện T, thành phố H thì nhận được điện thoại của Đoàn Hồng D, sinh năm 1984, nơi cư trú: Thôn 1, xã L, huyện T, thành phố H hỏi mua 01 gói ma túy (heroine). Vũ Văn T đồng ý bán với giá 200.000 đồng/gói và hẹn Đoàn Hồng D đến đường liên thôn gần nghĩa trang thuộc thôn 1B, xã Lưu Kiếm, huyện T, thành phố H để mua bán. Tại đây Vũ Văn T gặp Đoàn Hồng D đi cùng với Cù Văn X, sinh năm 1986, nơi cư trú: Xã Lưu Kiếm, huyện T, thành phố H, Vũ Văn T đã bán cho Đoàn Hồng D 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng.

Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 01 tháng 6 năm 2018 Vũ Văn T đang ở nhà tại thôn 2, xã M, huyện T, thành phố H thì nhận được điện thoại của Đoàn Hồng D, sinh năm 1984, nơi cư trú: Thôn 1, xã L, huyện T, thành phố H hỏi mua 01 gói ma túy (heroine). Vũ Văn T đồng ý bán với giá 200.000 đồng/gói và hẹn Đoàn Hồng D đến khu vực đường vào nghĩa trang thuộc thôn 1B, xã Lưu Kiếm, huyện T, thành phố H để mua bán. Tại đây Vũ Văn T gặp Đoàn Hồng D đi cùng với Phạm Thanh N, sinh năm 1995, nơi cư trú: Thôn 9, xã Chính Mỹ, huyện T, thành phố H, Vũ Văn T đã bán cho Đoàn Hồng D 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Khi Vũ Văn T và Đoàn Hồng D vừa giao dịch mua bán xong thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện T kết hợp với Đội 3 Cụm đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 1 - Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Trạm Cảnh sát nhân dân cầu Đá Bạc và Công an xã Lưu Kiếm làm nhiệm vụ tại thôn 1B, xã Lưu Kiếm, huyện T, thành phố H phát hiện bắt quả tang. Thu giữ tại túi quần phía trước bên phải của Đoàn Hồng D 01 gói giấy loại giấy vở học sinh bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi là chất ma túy), 01 điện thoại di động đã qua sử dụng; thu giữ tại túi quần phía trước bên trái của Vũ Văn T 01 gói giấy loại giấy vở học sinh bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi chất ma túy), số tiền 200.000 đồng, 01 điện thoại di động đã qua sử dụng và 01 xe mô tô biển kiểm soát 16H3-9124.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Vũ Văn T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã thu giữ: Tại mặt sân cách mép hiên trước cửa ra vào 20cm về phía ngõ có 01 gói giấy loại giấy vở học sinh kẻ ô ly bên trong chứa chất bột màu trắng (nghi chất ma túy). Tại mặt ghế ngồi gian phòng ngủ bên trái cửa ra vào nhìn từ sân vào có 01 tờ giấy vở học sinh (tờ đôi) loại giấy kẻ ô ly bị mất một góc (kích thước 4cm x 7cm), 01 dao lam, 01 kéo và 01 bật lửa ga đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số 275/KLGĐ(Đ6) ngày 04 tháng 6 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự -Công an thành phố H kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Đoàn Hồng D có khối lượng 0,0527gam là ma túy, là loại heroine; chất bột màu trắng thu giữ của Vũ Văn T có khối lượng 0,0987gam là ma túy, là loại heroine; chất bột màu trắng thu giữ tại nơi ở của Vũ Văn T có khối lượng 0,0873gam là ma túy, là loại heroine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, Đoàn Hồng D, Cù Văn X và Phạm Thanh N khai: Cù Văn X, Phạm Thanh N góp tiền đưa cho Đoàn Hồng D mua ma túy để sử dụng chung. Đoàn Hồng D là người đứng ra giao dịch mua bán ma túy với Vũ Văn T, còn Phạm Thanh N và Cù Văn X đi cùng với Đoàn Hồng D và chứng kiến việc Đoàn Hồng D mua ma túy của Vũ Văn T. Cụ thể ngày 17 tháng 5 năm 2018 và ngày 30 tháng 5 năm 2018 Cù Văn X và Đoàn Hồng D, mỗi người góp100.000 đồng để mua ma túy của Vũ Văn T; ngày 01 tháng 6 năm 2018 Đoàn Hồng D và Phạm Thanh N, mỗi người góp 100.000 đồng để mua ma túy của Vũ Văn T về sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

Bản cáo trạng số 121/CT-VKSTN ngày 23 tháng 10 năm 2018 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố H đã truy tố bị cáo Vũ Văn T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Vũ Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố. Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng nhưng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H trình bày lời luận tội đối với bị cáo Vũ Văn T, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Văn T từ 08 năm đến 09 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 01 tháng 6 năm 2018; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Vũ Văn T. Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 03 phong bì niêm phong số 275/2018/PC54đựng vỏ giấy đựng chất ma túy còn lại sau giám định,01 tờ giấy vở học sinh, 01 dao lam, 01 kéo và 01 bật lửa ga; tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVK màu đen đã qua sử dụng thu của Vũ Văn T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Smart màu đen đã qua sử dụng thu của Đoàn Hồng D ; tịch thu sung vào ngân sách nước số tiền 200.000 đồng thu của bị cáo Vũ Văn T. Truy thu số tiền 400.000 đồng của bị cáo Vũ Văn T do bán ma túy ngày 17 tháng 5 năm 2018 và ngày 30 tháng 5 năm 2018 mà có để sung vào ngân sách nhà nước.

Người bào chữa cho bị cáo Vũ Văn T trình bày lời bào chữa cho bị cáo Vũ Văn T: Đồng ý với quan điểm của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện T về tội danh, điều luật, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị áp dụng đối với bị cáo Vũ Văn T. Ngoài ra người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết người phạm tội tự thú, bị cáo có thời gian tham gia quân đội là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Vũ Văn T không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, số lượng ma túy bị cáo đã bán không lớn, hoàn cảnh gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo, nhận thức về pháp luật còn hạn chế nên người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo Vũ Văn T được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Về án phí: Bị cáo Vũ Văn T thuộc hộ cận nghèo nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Vũ Văn T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về trình tự thủ tục, thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

 [2] Lời khai của bị cáo Vũ Văn T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định số 275/KLGĐ(Đ6) ngày 04 tháng 6 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Do nghiện ma túy nên bị cáo Vũ Văn T đã thực hiện hành vi mua ma túy về bán lại cho những người nghiện khác để kiếm lời. Trong vụ án này xác định bị cáo Vũ Văn T đã có hành vi cất giấu 0,1860 gam ma túy là loại heroine nhằm mục đích bán trái phép chất ma túy cho người khác và đã 03 lần bán trái phép chất ma túy là loại heroine với giá 200.000đồng/gói cho Đoàn Hồng D vào các ngày 17 tháng 5 năm 2018, ngày 30 tháng 5 năm 2018 và ngày 01 tháng 6 năm 2018 nên bị cáo Vũ Văn T đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy với tình tiết định khung hình phạt là “phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố H đã truy tố và đề nghị kết tội bị cáo Vũ Văn T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng điều luật.

 [3] Xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Văn T là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng, gây mất trật tự trị an xã hội.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vũ Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo Vũ Văn T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết người phạm tội tự thú, bị cáo có thời gian tham gia quân đội là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xét hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Văn T là do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T phát hiện bắt quả tang nên Hội đồng xét xử không chấp nhận ý kiến của người bào chữa đề nghị áp dụng tình tiết người phạm tội tự thú đối với bị cáo Vũ Văn T. Bị cáo Vũ Văn T có thời gian tham gia quân đội nên chấp nhận ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Vũ Văn T được hưởng tình tiết có thời gian tham gia quân đội là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích đánh giá trên Hội đồng xét xử xét thấy nhân thân bị cáo Vũ Văn T không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng nên không chấp nhận ý kiến của người bào chữa cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù với mức hình phạt trên khởi điểm của khung hình phạt theo đề nghị của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định mới đủ điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bịcáo Vũ Văn T không có nghề nghiệp ổn định, bị cáo thuộc cận hộ nghèo nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Vũ Văn T.

 [4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xác định 03 phong bì niêm phong số 275/2018/PC54 đựng vỏ giấy đựng chất ma túy còn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ; 01 tờ giấy vở học sinh, 01 dao lam, 01 kéo và 01 bật lửa ga là vật liên quan đến việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVK màu đen đã qua sử dụng thu của bị cáo Vũ Văn T và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Smart màu đen đã qua sử dụng thu của Đoàn Hồng D xác định là công cụ dùng vào việc phạm tội cần tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước. Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo Vũ Văn T là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; số tiền 400.000 đồng bị cáo bán ma túy cho Đoàn Hồng D vào ngày 17 tháng 5 năm 2018 và ngày 30 tháng 5 năm 2018 được xác định là tiền do phạm tội mà có cần truy thu sung vào ngân sách nhà nước.

 [5] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Vũ Văn T thuộc hộ cận nghèo nên được miễn nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

 [6] Trong vụ án này chiếc xe mô tô biển số 16H3-9124 thu giữ của Vũ Văn T, quá trình điều tra xác định đăng ký xe mang tên anh Vũ Hồng Vượng, sinh năm 1971; địa chỉ: Xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố H. Năm 2010 anh Vũ Hồng Vượng đã bán cho người khác (không nhớ tên, tuổi, địa chỉ) với giá 1.000.000 đồng. Giám định số khung, số máy không bị tẩy xóa, sửa chữa và không phải là vật chứng trong vụ án khác nhưng số khung, số máy không trùng với số khung, số máy ghi trên đăng ký xe. Vũ Văn T khai mua của người không quen biết và không có giấy mua bán. Do chưa làm rõ được nguồn gốc chiếc xe trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tách ra làm rõ xử lý sau. Đối với Đoàn Hồng D, Phạm Thanh N và Cù Văn X là những người mua ma túy của Vũ Văn T để sử dụng cho bản thân; nhân thân của Đoàn Hồng D và Phạm Thanh N chưa có tiền án, tiền sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, khối lượng ma túy thu giữ không đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự và không thu giữ được ma túy của Cù Văn X nên Công an huyện T đã xử phạt vi phạm hành chính đối với Đoàn Hồng D, Phạm Thanh N và Cù Văn X là đúng quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Văn T 08(tám) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 01tháng 6 năm 2018).

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 03 phong bì niêm phong số 275/2018/PC54 đựng vỏ giấy đựng chất ma túy còn lại sau giám định, 01 tờ giấy vở học sinh, 01 dao lam, 01 kéo và 01 bật lửa ga (Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố H).

- Tịch thu phát mại sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVK màu đen đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Smart màu đen đã qua sử dụng (Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố H).

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) thu của bị cáo Vũ Văn T (Theo biên lai thu tiền số 0000782 ngày 24 tháng 10 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố H).

- Truy thu số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) của bị cáo Vũ Văn T do phạm tội mà có để sung vào ngân sách nhà nước. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành xong khoản tiền truy thu thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Vũ Văn T được miễn nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 118/2018/HS-ST ngày 22/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:118/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về