Bản án 118/2018/HS-ST ngày 14/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 118/2018/HS-ST NGÀY 14/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 14 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 124/2018/TLST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo Quàng Văn N, sinh năm 1996 tại Điện Biên; Tên gọi khác: Không. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản N, xã P, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Lớp 8/12.

Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam
Con ông: Quàng Văn K, sinh năm 1965. Con bà Quàng Thị A, sinh năm 1972. Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 06/02/2018, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 06/02/2018, Quàng Văn N đi bộ từ nhà ở bản N, xã P, huyện Đ ra khu vực đầu bản N để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Đến nơi bị cáo gặp và mua được ma túy của một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 30 tuổi bị cáo không rõ lai lịch. Số ma túy bị cáo mua được là ba gói Heroine với giá 150.000 đồng. Mua được Heroine, bị cáo cho một gói vào túi quần bên phải đang mặc, còn hai gói bị cáo cầm ở tay phải. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi bị cáo đang đứng ở đầu bản N thì bị tổ công tác Công an huyện Đ phối hợp với Công an xã P đến kiểm tra. Bị cáo sợ bị phát hiện nên đã thả 02 gói Heroine cầm trên tay xuống đất. Tổ công tác yêu cầu N nhặt lên giao nộp đồng thời thu giữ gói Heroine trong túi quần của bị cáo.

Cáo trạng số 71/CT-VKSĐB ngày 11/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo Quàng Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015.

Luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Tuyên phạt bị cáo Quàng Văn N từ 15 đến 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xử lý vật chứng. Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa XIV về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, buộc bị cáo Quàng Văn N phải chịu án phí HSST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ phạm tội:

Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 11 giờ 45 phút ngày 06/02/2018 bút lục 01, 02, người bị bắt Quàng Văn N công nhận đã bị cơ quan Công an bắt quả tang thu giữ 03 gói. Trong đó có 02 gói được gói bằng vỏ bao kim tiêm và 01 gói được gói bên ngoài bằng ni lông màu trắng, mở bên trong các gói có chứa các cục bột màu trắng nghi là Heroine. Vật chứng bị thu giữ bị cáo Quàng Văn N khai và thừa nhận là của bị cáo.
 
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 17 giờ 30 phút ngày 06/02/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ bút lục số 04, 05 thì khối lượng vật chứng thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Quàng Văn N là 0,53 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,09 gam.

Kết luận giám định số 297/GĐ-PC54 ngày 05/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên bút lục số 26 thì mẫu chất bột màu trắng đục gửi giám định của Quàng Văn N là chất ma túy loại Heroine. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 20, danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Không hoàn lại mẫu vật sau giám định.

Các biên bản ghi lời khai, hỏi cung bị can, bản tự khai của Quàng Văn N từ bút lục số 32 đến 49 chứng minh bị cáo Quàng Văn N đã tàng trữ trái phép 0,53 gam Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo thừa nhận đã mua số ma túy của một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 30 tuổi bị cáo không biết rõ lai lịch với giá 150.000 đồng để sử dụng.

Bản Kết luận điều tra số 68/KLĐT ngày 05/4/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ kết luận chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đưa bị can Quàng Văn N ra truy tố công khai trước pháp luật về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy bị cáo Quàng Văn N có tội. Chứng cứ xác định bị cáo đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Quàng Văn N có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

[3] Về tính chất mức độ phạm tội:

Khối lượng ma túy bị thu giữ của Quàng Văn N là 0,53 gam Heroine. Khối lượng Heroine mà bị cáo tàng trữ ở trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam. Tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ 01 đến 05 năm tù.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo sinh ra và lớn lên ở xã P, huyện Đ. Tuổi đời bị cáo còn trẻ nhưng đã sớm nghiện ma túy. Đây là nguyên nhân chính mà bị cáo thực hiện hành vi phạm tội để phải nhận một bản án không đáng có trong đời. Bị cáo Quàng Văn N không có tình tiết tăng nặng nào, quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Nhận định trên đây là cơ sở để chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhưng vẫn phải nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo cố gắng cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, tài sản trong gia đình không có gì giá trị, bị cáo không giữ chức vụ gì trong xã hội, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Quàng Văn N.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với nguồn gốc số ma túy bị thu giữ bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Mông khoảng 30 tuổi, bị cáo không biết rõ lai lịch. Quá trình điều tra không có cơ sở để làm rõ đối tượng. Hội đồng xét xử không xem xét.

Vật chứng của vụ án là 0,53 gam Heroine, trích mẫu gửi giám định 0,09 gam không hoàn lại mẫu vật. Vật chứng này tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.
1. Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" 

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn N 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 06/02/2018.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,53 gam Heroine trích mẫu gửi giám định 0,09 gam không hoàn lại mẫu vật. Vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng hồi
10 giờ 10 phút ngày 17/4/2018 giữa Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.

2. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Quàng Văn N phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 14/5/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 118/2018/HS-ST ngày 14/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:118/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về