TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 118/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN
Ngày 27 tháng 7 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 152/2017/TLST- HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2017 về tranh chấp “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2017/QĐXX-ST ngày 12 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn
Chị LÊ KIM Y, sinh năm 1993.
Địa chỉ tạm trú:, đường B, khu phố M, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ KHTT: ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.
2.Bị đơn: Anh PHẠM VĂN H, sinh năm 1984.
Địa chỉ: ấp N, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
( Chị Lê Kim Y có mặt và anh Phạm Văn H vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 07/3/2017 nguyên đơn là chị Lê Kim Y trình bày:
Do quen biết nên chị Y và anh Phạm Văn H kết hôn vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Quan hệ vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 10 năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh H không lo làm ăn mà thường xuyên cở bạc, không quan tâm đến đời sống vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã. Do cuộc sống không hạnh phúc nên chị Y và anh H đã ly thân từ đó cho đến nay.
Về con chung có 01 đứa tên là: Phạm Gia H, sinh ngày 03/4/2013 hiện đang sống cùng với chị Y.
Về tài sản chung, nợ chung: không có.
Nay chị Y yêu cầu được ly hôn với anh H.
Về con chung: Chị Y yêu cầu được nuôi con chung là Phạm Gia H, sinh ngày 03/4/2013.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Y không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi.
Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Phạm Văn H vắng mặt:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên Tòa hôm nay, bị đơn là anh Phạm Văn H vắng mặt. Xét thấy, bị đơn là anh Phạm Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn cố tình vắng mặt và cũng không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đồng thời bị đơn không có yêu cầu phản tố cho nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ và đúng với quy định của pháp luật.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Theo các lời trình bày của nguyên đơn có trong hồ sơ vụ án, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn kéo dài, nguyên nhân là do bị đơn không quan tâm đến đời sống gia đình dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi vã. Xét thấy, quan hệ vợ chồng giữa nguyên đơn và bị đơn đã thật sự tan vỡ, không còn khả năng hàn gắn đoàn tụ. Bỡi lẽ, theo lời trình bày của nguyên đơn từ khi nộp đơn xin ly hôn đến nay, mặc dù nguyên đơn có thông báo cho bị đơn biết, nhưng bị đơn vẫn không có ý kiến gì và cũng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm của vợ chồng, vì vậy đã đủ cơ sở để xác định cuộc sống vợ chồng giữa nguyên đơn và bị đơn không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên, nguyên đơn yêu cầu ly hôn bị đơn là có căn cứ pháp luật để Hội đồng xét xử xem xét.
[3] Về nuôi con chung: theo lời khai của nguyên đơn cũng như các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung tên là Phạm Gia H, sinh ngày 03/4/2013, hiện đang sinh sống cùng với nguyên đơn. Xét thấy, để tránh những xáo trộn trong đời sống, tâm sinh lý, gây ra những ảnh hưởng đến việc phát triển bình thường của con chung. Cho nên, yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là cháu Phạm Gia H, sinh ngày 03/4/2013 của nguyên đơn là có căn cứ pháp luật để Hội đồng xét xử xem xét quyết định.
[4] Về cấp dƣỡng nuôi con: Do nguyên đơn không có yêu cầu bị đơn phải cấp dưỡng nuôi con nên không có căn cứ để Hội đồng xét xử phải đặt ra giải quyết.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Do nguyên đơn khai không có tài sản chung và cũng không có nợ ai, không ai nợ lại đồng thời không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết trong vụ án này.
[6] Về án phí HNST: Nguyên đơn phải chịu án phí HNST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ khoản 2 của Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Xử:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Kim Y và anh Phạm Văn H.
[2] Về nuôi con chung: Giao con chung là Phạm Gia H, sinh ngày 03/4/2013 cho chị Lê Kim Y trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Phạm Văn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Phạm Văn H khỏi phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Y không có yêu cầu.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Do chị Lê Kim Y khai không có tài sản chung và cũng không có nợ ai, không ai nợ lại đồng thời không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết trong vụ án này.
[5] Về án phí HNST: Chị Lê Kim Y phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000đ, chị Y đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 06494 ngày 07/3/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè nên không phải nộp tiếp.
Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự, đại diện cơ quan , tổ chức hoặc cá nhân khởi kiện không có mặt tại phiên Tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 118/2017/HNGĐ-ST ngày 27/07/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
Số hiệu: | 118/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về