Bản án 118/2017/HNGĐ-ST ngày 14/09/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI  BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 118/2017/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 373/2017/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2017 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 143/2017/QĐXX-ST ngày 29 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Minh K; địa chỉ cư trú: ấp T, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau (có mặt).

2. Bị đơn: Chị Huỳnh Mộng Ng; địa chỉ cư trú: ấp T, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 18/6/2017 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Minh K trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Huỳnh Mộng Ng tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn vào ngày 05/5/2010 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cự cải nhau, chung sống không có hạnh phúc nên vợ chồng sống ly thân từ năm 2015 đến nay.

Về con chung: Anh và chị Ng có 01 con chung là cháu Nguyễn Huỳnh Minh T– sinh ngày 24/3/2012, cháu hiện đang chung sống với anh.

Nay anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh và chị Ng được ly hôn; anh yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy cháu T, không yêu cầu chị Ng cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung là không có nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai ngày 23/6/2017, bị đơn chị Huỳnh Mộng Ng trình bày:

Chị thống nhất với trình bày của anh Nguyễn Minh K về các vấn đề hôn nhân, con chung và tài sản chung.

Nay chị thống nhất ly hôn với anh K; chị thống nhất để cho anh K tiếp tục nuôi dạy cháu T, chị không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung là không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đương sự và đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình trình bày ý kiến như sau:

Anh Nguyễn Minh K vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình như trình bày, anh không có ý kiến gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đúng với quy định pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của anh K đối với chị Ng; về hôn nhân giải quyết cho anh K và chị Ng được ly hôn; về con chung giao cho cháu T cho anh K tiếp tục nuôi dạy, chị Ng không phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung tự thỏa thuận, nợ chung không có nên không xem xét giải quyết; về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm anh K phải chịu 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục: Tòa án đã triệu tập xét xử hợp lệ, nhưng bị đơn chị Huỳnh Mộng Ng có yêu cầu xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào điểm khoản 1 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Ng.

[2] Về nội dung tranh chấp: Nguyên đơn anh Huỳnh Minh K cho rằng trong quá trình chung sống với bị đơn chị Huỳnh Mộng Ng thì hai người có xảy mâu thuẫn, chung sống không hạnh phúc nên anh K yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Ng và được quyền nuôi con chung.

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa đã thể hiện:

Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh K và chị Ng được xác lập hợp pháp, thể hiện là anh chị có đăng ký kết vào ngày 05/5/2010 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Sau khi kết hôn anh chị chung sống được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chung sống không hạnh phúc nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay là thực tế có xảy ra, điều này phù hợp với lời trình bày của người thân trong gia đình về tình trạng mâu thuẫn của anh chị. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhiều lần tiến hành hòa giải để anh chị hàn gắn nhưng không có kết quả, do chị Ng không tham gia hòa giải, đồng thời chị Ng cũng có ý kiến thống nhất ly hôn theo yêu cầu của anh K. Điều đó chứng tỏ mối quan hệ hôn nhân giữa anh K và chị Ng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nên giải quyết cho anh chị ly hôn với nhau là phù hợp với thực tế. Vì vậy, anh K yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh và chị Ng được ly hôn là có căn cứ chấp nhận.

Về con chung: Anh K và chị Ng có 01 người con chung là cháu Nguyễn Huỳnh Minh T – sinh ngày 24/3/2012. Cháu T hiện chưa thành niên, kể từ khi vợ chồng ly thân đến nay anh K trực tiếp nuôi dạy cháu vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt, cuộc sống của cháu đã ổn định, chị Ng cũng thống nhất để cho anh K nuôi dạy cháu, do đó giao cháu T cho anh K tiếp tục nuôi dạy là phù hợp. Anh K không yêu cầu chị Ng cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét. Chị Ng có quyền, nghĩa vụ thăm nom cháu T mà không ai được cản trở.

[3] Về án phí: Anh K chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch số tiền 300.000 đồng, chị Ng không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Minh K đối với chịHuỳnh Mộng Ng.

Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Minh K và chị Huỳnh Mộng Ng.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Huỳnh Minh T – sinh ngày 24/3/2012 cho anh Nguyễn Minh K tiếp tục nuôi dạy. Chị Huỳnh Mộng Ng không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Chị Huỳnh Mộng Ng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về án phí: Anh Nguyễn Minh K chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng. Ngày 20/6/2017, anh  K nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng  theo biên lai  thu số 0018664 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thới Bình được chuyển thu án phí.

Trong trường hợp bản án thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Anh Nguyễn Minh K có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Huỳnh Mộng Ng vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 118/2017/HNGĐ-ST ngày 14/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:118/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về