Bản án 117/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BA ĐÌNH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 117/2019/HSST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Hôm nay, ngày 25 tháng 6 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận Ba Đình, TP. Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 81/2019/HSST 24/4/2019 đối với bị cáo:

1/ Hoàng Thị L1- Sinh năm: 1980; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 28 ngõ 678 L, phường G, quận B, thành phố H; Nơi ở: Số 1 ngách 26 ngõ 678 L, phường G, quận B, thành phố H;Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông: Hoàng Đình Thực; Con bà: Lữ Thị X; Chồng: Dương Quang H; Tiền án tiền sự: Ngày 04/10/2001 công an phường L bắt về tội đánh bạc; Tạm giữ: 18/12/2018; Tạm tha: 25/12/2018 bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa)

2/ Nguyễn Thị L2- Sinh năm: 1963; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 14 ngõ 84 L, phường P, quận Đ, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông: Nguyễn Văn L; Con bà: Nguyễn Thị N; Chồng: Chu Hữu D và có 01 con; Tiền án tiền sự: chưa; Tạm giữ: 18/12/1018; Tạm tha: 25/12/2018 Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa)

3/ Đào Kim T- Sinh năm: 1974; Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Số 907 đường La T, phường N, quận B, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông: Đào Văn D (chết); Con bà: Nguyễn Thị K (chết); Chồng: Nguyễn Bá B (chết) và có 03 con; Tiền án tiền sự: chưa; Tạm giữ: 18/12/1018; Tạm tha: 25/12/2018 Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa)

4/ Phùng Ngọc A- Sinh năm: 1984; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 2703A KCC Đ, phường V, quận H, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông: Phùng Ngọc L (chết); Con bà: Hoàng Thị T; Vợ: Lâm Thị L và có 01 con; Tiền án tiền sự: chưa; Tạm giữ: 18/12/1018; Tạm tha: 25/12/2018 Bị cáo tại ngoại (có mặt tại phiên tòa)

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Trần Thị Kim L3 – sinh năm 1963; Trú tại: 592 L, phường G, quận B, thành phố H (vắng mặt)

2. Nguyễn Thị M – sinh năm 1975; Trú tại: 399 L, phường T, quận B, thành phố H (vắng mặt)

3. Nguyễn Thị L4 – sinh năm 1956; Trú tại: Số 158 N, phường G, quận B, thành phố H (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 16h15’ ngày 18/12/2018, tổ công tác Đội cảnh sát hình sự - Công an quận Ba Đình, kiểm tra hành chính tại số 1 ngách 26 ngõ 678 L, phường G, quận B, H phát hiện tại tầng 3 có 02 chiếu bạc gồm: Chiếu 1 có 04 đối tượng gồm: Hoàng Thị L1, Đào Kim T, Nguyễn Thị L2 và Phùng Ngọc A đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức chơi tá lả sát phạt nhau bằng tiền, thu giữ vật chứng trên chiếu bạc là: 6.600.000 đồng (sáu triệu sáu trăm ngàn đồng chẵn).

Chiếu 2 có 04 đối tượng gồm: Nguyễn Thị M, Trần Ngọc D, Trần Thị Kim L3 và Nguyễn Thị L4 đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức chơi tá lả sát phạt nhau bằng tiền, thu giữ vật chứng trên chiếu bạc là: 4.850.000 đồng (bốn triệu tám trăm năm mươi ngàn đồng chẵn).

Tổ công tác đã lập biên bản đưa các đối tượng về trụ sở Công an quận Ba Đình để làm rõ.

Tang vật thu giữ tại chiếu bạc thứ nhất:

+ Thu giữ của Hoàng Thị L1 trên chiếu bạc số tiền 2.800.000 đồng và 02 bộ bài tú lơ khơ loại 52 quân bài;

+ Thu giữ của Nguyễn Thị L2 trên chiếu bạc 650.000 đồng, trong người 7.600.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung có số Imeil: 352461072516923 (đã qua sử dụng).

+ Thu giữ của Đào Kim T trên chiếu bạc 2.250.000 đồng, trong người 4.000.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh có số Imeil: 359764067046514, số sim 0969470420 (đã qua sử dụng);

+ Thu giữ của Phùng Ngọc A trên chiếu bạc 900.000 đồng, trong người 1.000.000 đồng.

Tang vật thu giữ tại chiếu bạc thứ hai:

+ Thu giữ của Nguyễn Thị M trên chiếu bạc 3.850.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu đỏ có số imeil: 867582307338281, số Imeil 2: 867582037540282 (đã qua sử dụng) và 02 bộ bài tú lơ khơ, trong người số tiền 7.100.000 đồng;

+ Thu giữ của Trần Thị Kim L3 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1 màu đen (đã qua sử dụng) và trong người số tiền 780.000 đồng.

+ Thu giữ của Trần Ngọc Dung trên chiếu bạc 650.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone6 màu vàng có số imeil: 355382071174841, số sim 09073883829 (đã qua sử dụng).

+ Thu giữ của Nguyễn Thị L4 trên chiếu bạc 350.000 đồng, trong người 1.970.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4s màu trắng có số imeil: 01320600684852 (đã qua sử dụng).

Tại cơ quan điều tra Hoàng Thị L1 khai nhận: Hoàng Thị L1 có cửa hàng làm tóc tại số 1 ngách 26 ngõ 678 L1, G, B, H. Khoảng 13h00 ngày 18/12/2018, L1 đang ở nhà thì có chị Nguyễn Thị L2, Đào Kim T, Trần Thị Kim L3, Trần Ngọc D, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị L4 và anh Phùng Ngọc A đến nhà chơi. Tại đây, mọi người rủ nhau chơi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền bằng hình thức đánh tá lả. L1 bảo mọi người lên tầng 3 gồm 8 người chia làm 02 chiếu bạc. L1 ngồi cùng Nguyễn Thị L2, Đào Kim T, Phùng Ngọc A còn chị Trần Thị Kim L3, Nguyễn Thị M, Trần Ngọc D, Nguyễn Thu L4 ngồi đánh bạc với nhau. Khi tất cả chơi đến 16h15’ thì bị tổ công tác Công an quận Ba Đình phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên chiếu bạc của Hoàng Thị L1, Đào Kim T, Nguyễn Thị L2, Phùng Ngọc A tổng số tiền là 6.600.000 đồng (sáu triệu sáu trăm ngàn đồng chẵn), thu giữ trên chiếu bạc của Trần Thị Kim L3, Trần Ngọc D, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị L4 tổng số tiền là 4.850.000 đồng (bốn triệu tám trăm năm mươi ngàn đồng chẵn).

Tất cả 8 người quy định hình thức chơi như sau: 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân bài, quy định số người chơi tối đa là 04 người/1 chiếu, tối thiểu là 02 người/ 1 chiếu. Khi bắt đầu chơi người chơi đầu tiên sẽ được chia 10 lá bài, những người chơi còn lại sẽ được chia 09 lá bài, tất cả các lá bài còn lại được đặt ở giữa chiếu gọi là “nọc”. Người chơi đầu tiên sẽ đánh ra 01 lá bài, người tiếp theo sẽ ăn lá bài đó nếu thấy hợp với các lá bài đang có tạo thành “phỏm”, nếu không ăn được lá bài người đánh trước đó thì phải bốc 01 lá bài trong “nọc”. Sau khi ăn bài hoặc bốc bài người chơi phải đánh ra 01 lá bài và cứ tiếp tục như vậy cho đến hết vòng. Ván bài sẽ kết thúc khi có một người “ù”, nếu trong chiếu không có ai “ù” thì sau 04 lượt đánh, ván bài sẽ kết thúc. Sau 04 lượt đánh nếu không có ai “ù” thì các lá bài còn lại sẽ được cộng điểm để tính thắng thua, số điểm là số của mỗi lá bài, riêng các lá A, J, Q, K sẽ được tính điểm lần lượt là 1, 11, 12, 13, trong trường hợp điểm số bằng nhau, người nào hạ bài sau sẽ bị thua. Kết thúc ván bài, nếu có người “ù” thì mỗi người phải trả cho người “ù” số tiền 250.000 đồng (hai trăm năm mươi ngàn đồng chẵn), nếu không có người “ù” lần lượt người về nhì trả cho người về nhất 50.000 đồng (năm mươi ngàn đồng), người về ba trả cho người về nhất 100.000 đồng (một trăm ngàn đồng), người về cuối trả cho người về nhất 150.000 đồng (một trăm năm mươi ngàn đồng), người nào móm (tức là không có “phỏm”) phải trả cho người về nhất 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng chẵn).

Công cụ và địa điểm đánh bạc là do Hoàng Thị L1 cung cấp và L1 quy định với mọi người: Trong ván bài người nào ù sẽ phải nộp lại cho L1 50.000 đồng/1 lần ù để L1 mua hoa quả, nước uống. Trong cuộc chơi ngày 18/12/2018 L1 đã thu được 2 lần ù là 100.000 đồng. Việc đánh bạc diễn ra tại nhà L1 được khoảng 1 tháng gần đây.

Quá trình điều tra, Hoàng Thị L1 thay đổi lời khai và khai nhận đây là lần đầu tiên tổ chức cho Nguyễn Thị L2, Đào Kim T, Phùng Ngọc A, Trần Thị Kim L3, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thu L4 và Trần Ngọc D đánh bạc tại nhà Hoàng Thị L1.

Tại cơ quan điều tra, Phùng Ngọc A, Nguyễn Thị L2, Đào Kim T, Trần Thị Kim L3, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị L4, Trần Ngọc D khai nhận: Khoảng 15h00 ngày 18/12/2018, tại tầng 3 nhà chị Hoàng Thị L1 có địa chỉ tại số 1 ngách 26 ngõ 678 L, phường G, quận B, Hà Nội có 07 người gồm chị L4, chị L3, chị D, chị M, chị L2, anh A và Hoàng Thị L1 (chủ nhà). Lúc này có chị L4, chị L3, chị D, chị Mai đang ngồi đánh bạc dưới hình thức tá lả ăn tiền. Sau đó Hoàng Thị Loan (chủ nhà) cùng Nguyễn Thị L2, Đào Kim T và Phùng Ngọc A làm thêm một chiếu bạc nữa để đánh bạc ăn tiền bằng hình thức chơi tá lả. Cả hai chiếu bạc chơi đến khoảng 16h30’ cùng ngày thì bị tổ công tác Công an quận Ba Đình bắt giữ. Thu giữ trên chiếu bạc của chị Hoàng Thị L1(chủ nhà), Nguyễn Thị L2, Đào Kim T, Phùng Ngọc A số tiền 6.600.000 đồng (sáu triệu sáu trăm ngàn đồng chẵn); thu giữ trên chiếu bạc chị Trần Thị Kim L3, Trần Ngọc D, Nguyễn Thị L4, Nguyễn Thị M số tiền 4.850.000đồng (bốn triệu, tám trăm ngàn đồng chẵn). Công cụ và địa điểm đánh bạc là do chị Hoàng Thị L1 (chủ nhà) cung cấp, chị L1 quy định nếu trong ván bài có người ù thì phải nộp lại cho L1 50.000 đồng để mua hoa quả, nước và khai nhận đây là lần đầu tiên tham gia đánh bạc tại nhà Hoàng Thị L1.

Đối với Trần Thị Kim L3, Nguyễn Thị L4, Trần Ngọc D, Nguyễn Thị M đã có hành vi đánh bạc với số tiền 4.850.000 đồng (bốn triệu, tám trăm năm mươi ngàn đồng) thu giữ tại chiếu bạc.

Nguyễn Thị L4 đã có 01 tiền án: Ngày 27,30/03/2015 Tòa án nhân dân quận Ba Đình xử phạt 6 tháng tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án, về tội Đánh bạc. Chấp hành xong án treo ngày 27/03/2016. Nộp án phí HSST ngày 20/01/2017. Xác định đã xóa án tích.

Nguyễn Thị Kim L3 có 03 tiền án:

- Ngày 15,16/12/2005 Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù cho hưởng án treo hạn thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án, về tội Đánh bạc. Xác minh thi hành án đã nộp án phí HSST ngày 16/6/2006. Đã xóa án tích.

- Ngày 5,6,7/02/2007 Tòa án nhân Thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù, về tội Đánh bạc, phạt bổ sung 3 triệu đồng. Tổng hợp hình phạt 10 tháng tù của bản án số 465/HSST ngày 15,16/12/2005. Buộc phải chấp hành chung của hai bản án là 40 tháng tù. Nộp án phí HSST và tiền phạt ngày 06/09/2007. Đã xóa án tích.

- Ngày 03/02/2015 Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xử phạt 3 năm 2 tháng tù về tội Đánh bạc, phạt bổ sung 3 triệu đồng. Ra trại: 18/8/2016. Nộp án phí HSST và tiền phạt ngày 07/10/2015. Đã xóa án tích.

Trần Ngọc D và Nguyễn Thị M chưa có tiền án tiền sự.

Do vậy, Trần Ngọc D và Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị Kim L3, Nguyễn Thị L4 không phạm vào tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ba Đình đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Trần Ngọc D và Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị Kim L3, Nguyễn Thị L4 về hành vi Đánh bạc.

Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone4S màu trắng đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị L4; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips màu đỏ đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị M; 01 điện thoại di động Iphon6 màu vàng đã qua sử dụng thu giữ của Trần Ngọc D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1 màu đen đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Thị Kim L3. Quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi đánh bạc, cơ quan điều tra đã trao trả chiếc điện thoại trên cho L4, M, D và L3.

Tại bản cáo trạng số 79 ngày 12/4/2019 Viện kiểm sát nhân dân Quận Ba Đình truy tố: Hoàng Thị L1 phạm tội Tổ chức đánh bạc theo khoản 1 điều 322 Bộ luật Hình sự; Hoàng Thị L1, Nguyễn Thị L2, Đào Kim T, Phùng Ngọc A phạm tội đánh bạc theo khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình trong phần luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng số 79/CT-VKS ngày 12/4/2019 và đề nghị: Áp dụng điểm b khoản 1 điều 322, khoản 1 điều 321, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38, điều 55 Bộ luật hình sự (đối với Hoàng Thị L1); Áp dụng khoản 1 điều 321, điểm s,i khoản 1 điều 51, điều 65 Bộ luật hình sự (đối với Nguyễn Thị L2 và Đào Kim T); Áp dụng khoản dụng khoản 1 điều 321, điểm s,i khoản 1 và khoản 2 điều 51, điều 35 Bộ luật hình sự (đối với Phùng Ngọc A); Xử phạt: Bị cáo Hoàng Thị L1 từ 12 tháng đến 18 tháng tù giam về tội tổ chức đánh bạc, 06 (sáu) tháng đến 12 tháng tháng tù tội đánh bạc. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội từ 18 tháng đến 30 tháng tù; Nguyễn Thị L2, Đào Kim T từ 06 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách từ 12 tháng đến 24 tháng; Phùng Ngọc A phạt 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng);

Áp dụng điểm a khoản 1 và khoản 2 điều 47 bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Tịch thu tiêu hủy 04 bộ tú lơ khơ mỗi bộ 52 quân; Tịch thu xung công quỹ nhà nước 11.450.000 đồng; Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị L2 01 điện thoại Samsung có số imei: 35246107251692 (đã qua sử dụng) và 7.600.000 đồng không liên quan đến vụ án; Trả lại cho bị cáo Đào Kim T 01 điện thoại nokia mầu xanh có số Imei 35246107251692 đã qua sử dụng và 4.000.000 đồng không liên quan đến vụ án; Trả lại bị cáo Phùng Ngọc A 1.000.000 đồng không liên quan đến vụ án. Thu giữ của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: Trần Thị Kim L3 780.000 đồng, Nguyễn Thị M 7.100.000 đồng, Nguyễn Thị L4 1.970.000 đồng. Số tiền này không liên quan đến vụ án trả lại cho những người trên. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

Lời nói sau cùng bị cáo Hoàng Thị L1, Nguyễn Thị L2, Đào Kim T, Phùng Ngọc A cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được mức án thấp nhất so với Viện kiểm sát đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ba Đình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ba Đình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai nhận tội thống nhất lời khai với nhau, tang vật thu giữ của vụ án, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.

[3] Những chứng cứ trên đây đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 13h00’ ngày 18/12/2018, tại số 1 ngách 678/26 L, phường G, quận B, H, Hoàng Thị L có hành vi tổ chức cho Đào Thị Kim T, Phùng Ngọc A, Nguyễn Thị L2, Trần Thị Kim L3, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị L4, Trần Ngọc D đánh bạc ăn tiền bằng hình thức chơi tá lả với 2 chiếu bạc: Chiếu 1 gồm: Hoàng Thị L1, Đào Kim T, Phùng Ngọc A, Nguyễn Thị L2 với số tiền thu trên chiếu bạc là 6.600.000 đồng. Chiếu 2 gồm: Trần Thị Kim L3, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị L4, Trần Ngọc D với số tiền thu trên chiếu bạc là 4.850.000 đồng thì bị tổ công tác Công an quận Ba Đình kiểm tra hành chính phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi của bị cáo Hoàng Thị L1 đã phạm tội tổ chức đánh bạc, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo Hoàng Thị L1, Nguyễn Thị L, Đào Kim T, Phùng Ngọc A đã phạm tội đánh bạc, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng được luật hình bảo vệ. Cờ bạc là tệ nạn đang phát triển mạnh trên cả nước gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, nên việc đưa các bị cáo ra truy tố xét xử là cần thiết. Vì vậy, phải xử lý nghiêm.

Xét vai trò nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của từng bị cáo trong vụ án: Trong vụ án này Hoàng Thị L1 giữ vai trò đầu vụ, L1 dùng tầng 3 cửa hàng gội đầu là nơi tổ chức đánh bạc dưới hình thức chơi tá lả, khi kết thúc ván bài, nếu có người “ù” thì mỗi người phải trả cho người “ù” số tiền 250.000 đồng nếu không có người “ù” lần lượt người về nhì trả cho người về nhất 50.000 đồng, người về ba trả cho người về nhất 100.000 đồng (một trăm ngàn đồng), người về cuối trả cho người về nhất 150.000 đồng, người nào móm (tức là không có “phỏm”) phải trả cho người về nhất 200.000 đồng. Mỗi một ván ù bị cáo hưởng lợi 50.000 đồng, bản thân bị cáo cũng tham gia đánh bạc nên bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 2 tội. Nhân thân bị cáo năm 2001 có 01 tiền sự về tội đánh bạc đã hết thời hiệu. Vì vậy, bị cáo phải có mức án tương xứng với hành vi phạm tội cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo. Tuy nhiên cũng xem xét bị cáo khai báo thành khẩn nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Nguyễn Thị L2, Đào Kim T, Phùng Ngọc A tham gia với vai trò đồng phạm. Nhân thân các bị có chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải có địa chỉ rõ ràng đang được tại ngoại nên cho bị cáo Nguyễn Thị L2, Đào Kim T được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ tác dụng giáo dục để trở thành người tốt. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i,s điều 51 Bộ luật hình sự.

Riêng đối với bị cáo Phùng Ngọc A ngoài các tình tiết giảm nhẹ nêu trên bị cáo đang đi làm tại công ty Cổ phần bảo hiểm hàng không có hợp đồng lao động không thời hạn, bố bị cáo được tặng thưởng huân huy chương, bị cáo có thu nhập ổn định nên nên áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo là phù hợp. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i,s khoản 1 và khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và lời khai các bị cáo tại phiên tòa, các bị cáo có thu nhập không ổn định ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 04 bộ tú lơ khơ; Tịch thu xung công quỹ nhà nước 11.450.000 đồng là tiền tang vật của vụ án các bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội nên tịch thu xung công quỹ nhà nước theo điểm a khoản 1 điều 47 bộ luật hình sự.

Trả lại cho các bị cáo: Nguyễn Thị L2 01 điện thoại Samsung có số imei: 35246107251692 (đã qua sử dụng) và 7.600.000 đồng, Đào Kim Thu 01 điện thoại nokia mầu xanh có số Imei 35246107251692 đã qua sử dụng và 4.000.000 đồng, Phùng Ngọc A 1.000.000 đồng không liên quan đến vụ án theo khoản 2 điều 47 bộ luật hình sự 2015.

Thu giữ của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: Trần Thị Kim L3 780.000 đồng, Nguyễn Thị M 7.100.000 đồng, Nguyễn Thị L4 1.970.000 đồng. Số tiền này không liên quan đến vụ án trả lại cho những người trên theo khoản 2 điều 47 bộ luật hình sự 2015.

[7] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Thị L1 phạm tội tổ chức đánh bạc và đánh bạc; Các bị cáo Nguyễn Thị L2, Đào Kim T, Phùng Ngọc A phạm tội đánh bạc.

Căn cứ khoản 1 điều 321, điểm b khoản 1 Điều 322; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Thị L1 14 (mười bốn) tháng tù về tội tổ chức đánh bạc, 06 (sáu) tháng tù tội đánh bạc. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 20 (hai mươi) tháng tù . Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 18/12/1018 đến ngày 25/12/2018.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị L2 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo về UBND phường P, quận Đ quản lý giáo dục trong thời hạn thử thách của bản án. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đào Kim T 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo về UBND phường N, quận B, H giám sát giáo dục trong thời hạn thử thách của bản án. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điểm i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự.

Xử Phạt: Bị cáo Phùng Ngọc A 20.000.000đồng (hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi suất của khoản tiền chưa thi hành án với mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Căn cứ điểm a khoản 1 và khoản 2 điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tịch thu tiêu hủy 04 bộ tú lơ khơ (mỗi bộ 52 quân);

Trả lại cho các bị cáo: Nguyễn Thị L2 01 điện thoại Samsung có số imei: 35246107251692 (đã qua sử dụng), Đào Kim T 01 điện thoại nokia mầu xanh có số Imei 35246107251692 đã qua sử dụng. Tang vật vụ án hiện đang thu giữ tại Chi cục thi hành án Quận Ba Đình (biên bản giao nhận vật chứng số 105 ngày 25.4.2019).

Tịch thu xung công quỹ nhà nước 11.450.000 đồng (mười một triệu bốn trăm năm mươi ngàn đồng) là tiền tang vật của vụ án.

Trả lại cho các bị cáo:Nguyễn Thị L2 7.600.000đồng (bẩy triệu sáu trăm ngàn đồng), Đào Kim T 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) Phùng Ngọc A 1.000.000 đồng (một triệu đồng) không liên quan đến vụ án.

Trả lại cho những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: Trần Thị Kim L3 780.000 đồng (bẩy trăm tám mươi ngàn đồng), Nguyễn Thị M 7.100.000 đồng (bẩy triệu một trăm ngàn đồng), Nguyễn Thị L4 1.970.000 đồng (một triệu chín trăm bảy mươi ngàn đồng).

Hiện số tiền trên đang tạm giữ tại tài khoản số 3949.1061.691 tại kho bạc nhà nước quan Ba Đình của chi cục thi hành án dân sự quận Ba Đình, Hà nội theo giấy nộp tiền ngày 25/5/2019.

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 117/2019/HSST ngày 25/06/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:117/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về