Bản án 117/2018/HNGĐ-ST ngày 24/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 117/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 627/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thiều Thị T, sinh năm 1981; thường trú: Thôn L, xã C, huyện X, tỉnh Hà Tĩnh; tạm trú: số 1/9A, khu phố N, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. (Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Thiều Đăng Hưng, sinh năm 1978; thường trú: Thôn L, xã C, huyện X, tỉnh Hà Tĩnh; tạm trú: số 214A/10, khu phố N, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. (Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

3. Người làm chứng:

- Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm 1982; thường trú: Xã C, huyện X, tỉnh Hà Tĩnh; tạm trú: Hẻm 226, đường số 8, khu 1, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

- Anh Thiều Đăng S, sinh năm 1973; thường trú: số 139/20, đường số 9, khu 5, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/6/2018 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Thiều Thị T đã trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Thiều Đăng H không quen biết nhau, được gia đình hai bên giới thiệu, sau đó làm đám hỏi nhưng không tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện X, tỉnh Hà Tĩnh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 07, quyển số 01, ngày 25/02/2007.

Sau khi kết hôn, chị T và anh H vào sinh sống tại số 1/9A, khu phố N, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương, hiện nay chị vẫn sinh sống và tạm trú ở địa chỉ này. Chung sống được khoảng 10 ngày, anh H đến sinh sống ở địa chỉ số 214A/10, khu phố N, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương cho đến nay. Quá trình chung sống ngắn ngủi nên không có hạnh phúc, chị bị ép cưới nên cũng không có tình cảm với anh H. Từ năm 2007 đến nay, anh chị sống ly thân với nhau, hai bên ít qua lại, không quan tâm đến nhau một thời gian dài, mỗi người tự đi làm lo cuộc sống của mình. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh H.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị T và anh H không có con chung.

Về tài sản chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nghĩa vụ chung và nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí hôn nhân gia đình: Chị T chịu theo quy định pháp luật.

- Quá trình tố tụng, bị đơn anh Thiều Đăng H đã được Tòa án thông báo thụ lý vụ án, triệu tập làm việc để làm bản tự khai, cung cấp chứng cứ vào ngày 27/7/2018; tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 17/8/2018; tham gia phiên tòa vào các ngày 06/9/2018 và ngày 24/9/2018, nhưng anh H vắng mặt không có lý do.

- Biên bản xác minh của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An ngày 26/7/2018 tại UBND phường A và tại UBND phường B thể hiện: Hội Liên hiệp phụ nữ phường A và phường B không tiếp nhận thông tin từ cơ sở phản ánh về mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Thiều Thị T và anh Thiều Đăng H, đồng thời không tiếp nhận đơn yêu cầu hòa giải về quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh H, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo thẩm quyền.

- Lời khai của người làm chứng anh Thiều Đăng S: Tôi là anh ruột của Thiều Thị T, anh vợ của Thiều Đăng H. Do gia đình hai bên quen biết nhau giới thiệu cho T, H quen nhau, sau đó tổ chức đám hỏi nhưng không làm đám cưới. T, H đăng ký kết hôn năm 2007 ở quê. Kết hôn xong T, H vào Dĩ An làm công nhân nhưng thực tế không sống chung từ năm 2007 cho đến nay. T sinh sống và tạm trú tại khu phố N, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. H nghe nói sinh sống ở khu phố N, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. T, H chưa có con chung. Mặc dù kết hôn nhưng cả hai không có tình cảm, không sống chung, mỗi người đi làm tự lo cuộc sống của mình.

- Lời khai của người làm chứng anh Hoàng Văn Đ: Tôi là hàng xóm của Thiều Thị T và Thiều Đăng H ở quê nên biết được mối quan hệ giữa hai người. Do gia đình hai bên quen biết nhau giới thiệu cho T, H quen nhau, sau đó tổ chức đám hỏi nhưng không làm đám cưới. T, H đăng ký kết hôn năm 2007 ở quê. Tôi vào Dĩ An trước làm môi giới nhà đất, còn T, H kết hôn xong vào Dĩ An làm công nhân nhưng thực tế không sống chung từ năm 2007 cho đến nay. T vào sinh sống và tạm trú tại khu phố N, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. H nghe nói vào ở khu phố N, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. T, H chưa có con chung.

- Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An tại phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn chị Thiều Thị T và bị đơn anh Thiều Đăng H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định. Về nội dung: Về quan hệ hôn nhân, chị T và anh H có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, hôn nhân của anh chị không tự nguyện, không có tình cảm, đã sống ly thân trong một thời gian dài, không thể hàn gắn, mỗi người tự đi làm lo cuộc sống của mình, không ai quan tâm đến ai. Do đó, chị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh H là có căn cứ. Quá trình chung sống chị T và anh H không có con chung. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung và nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Căn cứ các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Chị Thiều Thị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Thiều Đăng H nên đây là vụ án “Tranh chấp ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Thiều Thị T và bị đơn anh Thiều Đăng H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Thiều Thị T và anh Thiều Đăng H là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện X, tỉnh Hà Tĩnh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 07, quyển số 01, ngày 25/02/2007 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

Chị T xác định do hôn nhân không tự nguyện nên anh chị không có tình cảm, không có con chung, đã sống ly thân trong một thời gian dài, mỗi người tự đi làm lo cuộc sống của mình, không ai quan tâm đến ai, do đó không thể tiếp tục chung sống được với nhau. Chị T trình bày những mâu thuẫn vợ chồng phù hợp với lời khai của những người làm chứng. Xét mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc, để đạt được mục đích đó vợ chồng phải tôn trọng, thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Do sống ly thân từ năm 2007 đến nay nên chị T xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục quan hệ hôn nhân với anh H. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập đến làm việc nhưng anh H đều vắng mặt không rõ lý do, không đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, anh H cũng không có văn bản nào thể hiện thiện chí đưa ra phương pháp hàn gắn mối quan hệ giữa anh và chị T. Do đó, có cơ sở xác định cuộc sống hôn nhân của chị T và anh H không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay chị T yêu cầu được ly hôn với anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Thiều Thị T và anh Thiều Đăng H không có con chung nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung và nợ chung: Chị Thiều Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với quy định của pháp luật.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình: Chị Thiều Thị T phải chịu án phí theo quy định của của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Thiều Thị T đối với bị đơn anh Thiều Đăng H.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Thiều Thị T được ly hôn với anh Thiều Đăng H (Giấy chứng nhận kết hôn số 07, quyển số 01, ngày 25/02/2007 do Ủy ban nhân dân xã C, huyện X, tỉnh Hà Tĩnh cấp).

- Về con chung: Chị Thiều Thị T và anh Thiều Đăng H không có con chung nên Tòa án không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung, nghĩa vụ chung và nợ chung về tài sản: Chị Thiều Thị T không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân gia đình: Chị Thiều Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0019594 ngày 14/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 117/2018/HNGĐ-ST ngày 24/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:117/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về