Bản án 116/2020/HS-ST ngày 29/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 116/2020/HS-ST NGÀY 29/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Mở phiên toà công khai ngày 29 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Hà Đông để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 125/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Tử V, sinh năm 1988. HKTT: Tổ 1, phường V, quận H, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 10/12; Con ông Hoàng Liên S và bà Lê Thị Hồng D.

Tin án:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 46 ngày 31/3/2017 của TAND quận H, Thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đã chấp hành xong hình phạt.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 04 ngày 01/02/2019 của TAND quận H, Thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đã chấp hành xong hình phạt ngày 05/01/2020.

Nhân thân:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 120 ngày 14/8/2006 của TAND thị xã H, tỉnh Hà tây xử phạt 33 tháng tù về tội “Cướp tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Quyết định số 3197 ngày 01/2/2010 của Chủ tịch UBND quận H đưa người vào trung tâm giáo dục lao động xã hội số 1 Hà Nội thời hạn 24 tháng.

Danh chỉ bản số 311 lập ngày 06/5/2020 tại Công an quận Hà Đông, Hà Nội. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/5/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1988. HKTT: Tổ 7, phường M, quận H, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 11/12; Con ông Nguyễn Trọng T và bà Khuất Thị L. Có vợ là Trần Thị B và 01 con sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 162 ngày 18/10/2006 của TAND thị xã H, tỉnh Hà tây xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 90 ngày 04/6/2007 của TAND Thành phố H, tỉnh Hà Tây xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 36 ngày 22/7/2016 của Công an huyện Đ, Hà Nội xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi Cố ý gây thương tích.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 30 ngày 19/7/2017 của Công an Công an phường C, quận Hà Đông, Hà Nội xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Danh chỉ bản số 312 lập ngày 06/5/2020 tại Công an quận Hà Đông, Hà Nội. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/5/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1951. Địa chỉ: Số 4LK6C- C17, phường M, quận H, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Trọng T; sinh năm 1957. Trú tại: Số nhà 18, ngách 5, ngõ 112 đường C, phường M, quận H, Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Hoàng Tử V, Nguyễn Mạnh H bị Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 05/5/2020 H điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, BKS 33L6 - xxxx đến nhà V rủ V có việc, sau đó đi quanh khu vực quận H xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, khi đi đến khu vực phía trước nhà Số 4LK6C- C17 phường M, quận H phát hiện 01 xe đạp màu ghi xám để trước cửa nhà không khóa, không có người trông giữ. H dừng xe máy cách xe đạp khoảng 5m rồi xuống xe, đi đến dắt xe đạp định sẽ vác lên để sau xe máy để V điều khiển bỏ chạy thì ngay lúc này bị Tổ công tác Công an phường M phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Trong lúc lộn xộn, V bỏ chạy thoát.

Ngày 06/5/2020, Hoàng Tử V đến Công an phường Mộ Lao, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội đầu thú.

Vật chứng thu giữ gồm:

01 xe đạp nữ màu ghi xám, nhãn hiệu Wallaby đã qua sử dụng.

01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, BKS 33L6 - xxxx đã qua sử dụng.

Ngày 06/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông yêu cầu định giá tài sản là chiếc xe đạp đã thu giữ nêu trên. Tại Kết luận định giá tài sản số 159/KL-HĐĐG ngày 06/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hà Đông, kết luận: 01 xe đạp nữ màu ghi xám, nhãn hiệu Wallaby đã qua sử dụng có giá trị 2.800.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trao trả cho chủ sở hữu tài sản do các bị cáo chiếm đoạt, chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị Q không có đề nghị gì khác về phần dân sự.

Chiếc xe máy thu giữ của Nguyễn Mạnh H quá trình điều tra làm rõ: Đây là chiếc xe do ông Hoàng Văn C đứng tên đăng ký hợp pháp, quá trình sử dụng ông C đã bán cho người khác (không nhớ rõ là ai) khi mua không viết giấy tờ. Ông Nguyễn Trọng T (là bố bị cáo Hà) trình bày đây là chiếc xe ông mua của một người không quen biết, khi mua người bán tên là C có viết giấy cho ông.

o trạng số 128/CT-VKS-HS ngày 29/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố Hoàng Tử V và Nguyễn Mạnh H phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Hoàng Tử V từ 24 đến 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Mạnh H từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: người bị hại đã nhận lại tài sản gì, không đề nghị gì khác nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, BKS 33L6 - xxxx đã qua sử dụng là phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

c bị cáo đề nghị được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

n cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai nhận tội của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng; Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Có đủ căn cứ xác định: lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản của chủ sở hữu, khoảng 11 giờ ngày ngày 05/5/2020 tại trước cửa nhà số 4LK6C- C17, phường M, quận H, Hoàng Tử V và Nguyễn Mạnh H đang thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe đạp nhãn hiệu Wallaby đã qua sử dụng, trị giá 2.800.000 đồng của bà Nguyễn Thi Q thì bị Tổ công tác Công an phường Mộ Lao phát hiện bắt quả tang.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân. Các bị cáo đều đã nhiều lần bị xử lý về hành vi vi phạm pháp luật, nhưng không chịu tu dưỡng để trở thành người có ích mà vẫn bất chấp, coi thường pháp luật, tiếp tục có hành vi phạm tội nên cần có hình phạt phù hợp, đủ tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành. Sau khi phạm tội, bị cáo Văn đã đầu thú; quá trình điều tra cả hai bị cáo thành khẩn khai báo, nên được xem xét giảm nhẹ theo quy định tại điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về quyết định hình phạt: Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục và cải tạo đối với các bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản các bị cáo chiếm đoạt đã trả người bị hại. Đến nay người bị hại không có yêu cầu gì khác nên không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, BKS 33L6 - xxxx, số máy 0333518, số khung 333049 đã qua sử dụng, là phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. Quá trình điều tra xác định được nguồn gốc là tài sản do ông Hoàng Văn C đứng tên đăng ký hợp pháp song đã bán cho người khác từ lâu; ông Nguyễn Trọng T (bố đẻ bị cáo H) trình bày chiếc xe do ông mua của một người khác nhưng không phải là ông C; đến nay không xác định được chiếc xe thuộc sở hữu hợp pháp của ai; thời điểm thu giữ chiếc xe do bị cáo H đang sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Từ những nhận định trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Hoàng Tử V và Nguyễn Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Hoàng Tử V 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/5/2020.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Mạnh H 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/5/2020.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ, BKS 33L6 - xxxx, số máy 0333518, số khung 333049 và 01 giấy đăng ký xe máy Honda Wave BKS 33L6-xxxx mang tên Hoàng Văn Chiến. (Tình trạng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an quận Hà Đông và Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông ngày 04/6/2020).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Các bị cáo, người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2020/HS-ST ngày 29/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:116/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về