Bản án 116/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 116/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 120/2020/TLST- HS ngày 09 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/2020/QĐXXST- HS ngày 13/11/2020, đối với bị cáo:

Ma Đức L; Sinh ngày 16/9/2001 tại Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Thôn 24, xã K, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Ma Văn H và bà Quan Thị N; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 14/6/2020, bị cáo Ma Đức L đi xe taxi đến khu vực gần chùa A, thuộc tổ 4, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, mục đích là tìm một người tên Q để lấy ma tuý về sử dụng (theo bị cáo khai việc bị cáo đi lấy ma tuý là do một người bạn tên là T, bị cáo mới quen nhưng không biết địa chỉ nơi ở nhờ đến gặp một người tên Q để lấy ma tuý cùng nhau sử dụng. Khi đi T có đưa cho bị cáo một chiếc điện thoại di động để liên lạc với người tên Q). Quá trình di chuyển trên xe taxi, bị cáo đã liên lạc với người đàn ông tên Q qua điện Thoại của T và theo chỉ dẫn của Q, bị cáo đã xuống xe, đi bộ vào một ngõ nhỏ gần Chùa A, thuộc tổ 4, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, lấy được 01 gói nilon màu trắng được hàn kín bên trong chứa các chất tinh thể màu trắng, ở trong vỏ bao diêm để cạnh gốc cây mít bên đường. Sau đó bị cáo cất giấu trong túi quần bên trái đang mặc trên người và đi bộ ra đầu ngõ để đi về thì bị Tổ công tác Công an phường H, thành phố Tuyên Quang phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 16 giờ 30 phút cùng ngày. Quá trình bắt giữ bị cáo tự giác giao nộp 01 gói ma túy vừa lấy được. Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với bị cáo kết quả (+) dương tính (bị cáo khai nhận ngày 13/6/2020 đã sử dụng Methamphetamine).

Tại Kết luận giám định số 506/GĐKTHS ngày 17/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật (thu giữ của Ma Đức L) gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,195g (không phẩy một chín năm gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 120/CT-VKSTP ngày 06 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Ma Đức L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Ma Đức L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Ma Đức L từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Ngoài ra Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo; xử lý vật chứng (tịch thu, tiêu huỷ số Methamphetamine còn lại sau giám định và 01 vỏ bao diêm); tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Ma Đức L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi vi phạm của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Ma Đức L tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; kết luận giám định, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 16 giờ 30 phút ngày 14/6/2020, tại khu vực tổ 4, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Ma Đức L, đã có hành vi cất giữ trái phép 0,195g (không phẩy một chín năm gam) Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; số Methamphetamine mà bị cáo cất giữ trái phép có khối lượng dưới 05 gam. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo do vậy được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 13/6/2020 của Ma Đức L, Công an thành phố Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính (phạt cảnh cáo); đối với người đàn ông theo bị cáo khai tên T (nhưng không biết tên thật, địa chỉ), Cơ quan điều tra đã nhiều lần xác minh nhưng chưa làm rõ được lý lịch và vai trò của người này nên đã tách ra để tiếp tục điều tra xác minh và xử lý khi có đủ căn cứ. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng: Đối với số ma tuý còn lại (sau khi giám định) đã thu giữ của bị cáo được niêm phong theo quy định và 01 vỏ bao diêm hình chữ nhật, kích thước 2x3cm là vật chứng của vụ án, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy; đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, theo bị cáo khai nhận là của người đàn ông tên T đưa cho bị cáo, do điện thoại cài mật khẩu khóa màn hình nên chưa làm rõ được thông tin dữ liệu liên quan. Cơ quan điều tra đã có văn bản tách hồ sơ liên quan đến chiếc điện thoại di động này để tiếp tục xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Ma Đức L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Ma Đức L 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 14/6/2020).

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong, trên các mép dán có chữ ký của Ma Đức L, chữ ký của các thành phần tham gia, có 05 hình dấu của PhòngKỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,145g Methamphetamine; 01 vỏ bao diêm hình chữ nhật, kích thước 2x3cm.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 13/11/2020.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:116/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về