Bản án 116/2020/HSST ngày 17/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 116/2020/HSST NGÀY 17/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 117/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2020/QĐXXST-HS, ngày 05 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

LÊ VĂN C, sinh năm 1972; Nơi ĐKHKTT tại: Phường D, quận Đ, thành phố Hà Nội; Nơi ở: Kim Động, Hưng Yên. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Văn T (Đã chết); Con bà: Phạm Thị Q, sinh năm 1927; Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ 7; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 229 do Công an quận Bắc Từ Liêm lập ngày 27/3/2020; Bị cáo bị bắt ngày 19/3/2020; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 01 – Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 19/3/2020, bị cáo Lê Văn C điều khiển xe máy Piaggio màu xanh BKS 29G1-147.60 đi từ khu vực Thanh Xuân đến khu vực Công viên Hoà Bình thuộc địa phận phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội gặp và hỏi mua 1.000.000 đồng ma tuý Ketamine của một nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) thì nam thanh niên đồng ý và đưa cho bị cáo C 01 túi nilong kích thước khoảng (2x3)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng là ma tuý Ketamin, bị cáo C cất túi ma tuý vừa mua được vào túi quần bên phải phía trước rồi điều khiển xe máy đi về nhà tại A25 tập thể Hoàng Cầu, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Khi bị cáo C đi đến khu vực ngã ba đường Phạm Văn Đồng giao với Đỗ Nhuận thuộc địa phận phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội thì bị tổ công tác Y12-KH141 – Công an thành phố Hà Nội phối hợp với công an phường Xuân Đỉnh phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng Thu giữ của bị cáo C: 01 túi nilong kích thước khoảng (2x3)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 xe máy nhãn hiệu Piaggio màu xanh BKS 29G1-147.60, Số máy: 4033493, số khung: 033439, xe đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động OPPO A7 màu xanh đã qua sử dụng có số sim 0869672344.

Tại bản kết luận giám định số 2359/KLGĐ- PC09 ngày 26/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong là ma tuý loại Ketamine, khối lượng 1,702 gam.

Đối với nam thanh niên bán ma tuý cho bị cáo Lê Văn C tại khu vực Công viên Hoà Bình thuộc địa phận phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội quá trình điều tra đã dẫn giải bị cáo C nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để mở rộng điều tra và xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Piaggio màu xanh BKS 29G1-147.60, Số khung: 033439, Số máy: 4033493, thu giữ của bị cáo Lê Văn C. Qua xác minh nguồn gốc xe xác định đăng ký xe mang tên Phạm Thu Trang (sinh năm: 1993, Nơi đăng ký HKTT: Khu tập thể cảnh sát nhân dân 1, Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội). Bị cáo C và chị Trang có quan hệ họ hàng, ngày 19/3/2020, bị cáo C mượn chị Trang chiếc xe máy trên để sử dụng. Chị Trang không biết việc bị cáo C sử dụng để đi mua ma tuý. Qua tra cứu chiếc xe không có trong dữ liệu xe máy vật chứng. Do đó, ngày 15/5/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bắc Từ Liêm đã ra quyết định xử lý vật chứng số 32 trao trả chiếc xe máy Piaggio BKS 29G1-147.60 cho chị Phạm Thu Trang, chị Trang đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

Tại bản Cáo trạng số 134/CT-VKSBTL ngày 29/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã quyết định truy tố bị cáo Lê Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm giữ nguyên quyết định truy tố đã nêu trong bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt từ 16 đến 20 tháng tù; về xử lý vật chứng: trả lại bị cáo chiếc điện thoại do không liên quan đến tội phạm và tiêu hủy số ma túy.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; không có khiếu nại tố cáo gì. Tuy nhiên cần rút kinh nghiệm đối với điều tra viên và kiểm sát viên trong quá trình thực hiện tố tụng còn có nhiều sai sót do cẩu thả.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản thu giữ vật chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ để kết luận: Hồi 19 giờ 30 phút ngày 19 tháng 3 năm 2020, tại khu vực ngã ba đường Phạm Văn Đồng – Đỗ Nhuận thuộc địa phận phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, bị cáo Lê Văn C đang tàng trữ trái phép 1,702 gam là ma tuý Ketamine mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Tại tòa, bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2013 đến nay, bị cáo biết rõ tác hại của ma túy và Nhà nước cấm lưu thông nhưng vẫn sử dụng và cất giữ ma túy. Hành vi của bị cáo cất giữ trên người 1,702 gam là ma tuý Ketamine đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Đánh giá vai trò và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách phòng ngừa, ngăn chặn và kiểm soát tệ nạn ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội và là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác; Bị cáo bị đưa vào cơ sở giáo dục năm 2012 nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục có hành vi sử dụng ma túy trái quy định. Xét tính chất hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung theo quy định của pháp luật.

[4] Về vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo là chất Nhà nước cấm lưu thông, không còn giá trị điều tra cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động OPPO A7 màu xanh đã qua sử dụng có số sim 0869672344 không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho bị cáo.

[5] Bị cáo được quyền kháng cáo và phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Áp dụng Điều 47; Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

- Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/3/2020.

3. Xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, bên trong chứa ma túy đã giám định, bên ngoài có chữ ký giáp lai của Lê Văn C và giám định viên.

3.2. Trả lại bị cáo C 01 điện thoại di động OPPO A7 màu xanh đã qua sử dụng có số sim 0869672344 đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Bắc Từ Liêm - TP. Hà Nội theo Biên bản giao nhận vật chứng số 176/20 ngày 04/6/2020 giữa Chi cục Thi hành án quận Bắc Từ Liêm – TP. Hà Nội và Công an quận Bắc Từ Liêm – TP. Hà Nội.

4. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2020/HSST ngày 17/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:116/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bắc Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về