Bản án 116/2020/HS-PT ngày 19/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 116/2020/HS-PT NGÀY 19/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 159/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Hữu H, do có nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương đối với bản án sơ thẩm số 45/2020/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hải Dương.

- Bị cáo bị kháng nghị: Nguyễn Hữu H, sinh năm 1993 tại xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: Thôn N, xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu T và bà Nguyễn Thị Y; Vợ là Vũ Thị N và 02 con; Tiền án: không; Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 155/QĐ-XPHC ngày 24/9/2019, bị Phòng CSĐTTP về ma túy Công an tỉnh Hải Dương xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, H chấp hành xong quyết định ngày 01/10/2019; Nhân thân:

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 142/QĐ-XPHC ngày 05/12/2008, bị Công an huyện B, tỉnh Hải Dương phạt cảnh cáo về hành vi Trộm cắp vặt.

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 281/QĐ-XPHC ngày 16/11/2012, bị Công an huyện B xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi Đánh nhau và Hủy hoại tài sản, H chấp hành xong quyết định ngày 21/11/2012; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13 đến ngày 14 tháng 8 năm 2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương, có mặt.

Ngoài ra còn 03 bị cáo khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 03/5/2020, Nguyễn Hữu H đi bộ đến bờ đê thôn N, xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy với số tiền 2.000.000 đồng mục đích về bán cho người nghiện khác để kiếm lời. H mang ma túy về nhà cất giấu trong vỏ hộp thuốc lá Thăng Long bằng kim loại để trên mặt chiếu trải tại tầng 2 nhà H. Khoảng 01 giờ ngày 04/5/2020, Phạm Đức M đến nhà H chơi, trong lúc ngồi chơi H lấy một phần trong túi ma túy đã mua trước đó ra để sử dụng, M xin sử dụng cùng, H đồng ý. Sau khi lấy ma túy để sử dụng, H cất số ma túy còn lại vào vỏ hộp thuốc lá và để trên chiếu. M tiếp tục chơi, nghỉ tại nhà H Nguyễn Hữu H và Bùi Văn Q có mối quen biết xã hội. Khoảng 17 giờ ngày 04/5/2020, H sử dụng điện thoại Iphone 7 lắp sim 0983.171.460 của H gọi đến điện thoại Samsung Galaxy S7 lắp sim 0964.369.828 của Q để nói chuyện. Trong lúc nói chuyện, Q bảo H bán cho Q ma túy đá với số tiền 2.300.000 đồng. H và Q thống nhất: Q chuyển khoản trước cho H 500.000 đồng, còn lại 1.800.000 đồng khi nào nhận ma túy Q sẽ trả nốt. Sau đó, Q sử dụng điện thoại Samsung Galaxy S7 của Q, dùng ứng dụng Internet banking chuyển khoản số tiền 500.000 đồng từ số tài khoản 0341007203055 của Q đến số tài khoản 0341007046454 của H (2 tài khoản đều mở tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam). Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Q gọi điện cho H để lấy ma túy thì H hẹn Q đến cổng nhà H. Sau đó, H bảo với M, tý Q đến thì M cầm đồ đưa cho Q và lấy tiền mang lên cho H, M đồng ý. M hiểu là H bán ma túy cho Q, tý Q đến thì M đưa ma túy cho Q và lấy tiền Q trả mang cho H. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Q đến cổng nhà H rồi gọi điện cho H, H bảo Q đợi ở cổng. H nói với M là Q đến rồi và chỉ tay vào vỏ hộp thuốc lá Thăng Long để dưới chiếu. M mở hộp thuốc lá, dùng tay phải cầm túi ma túy đi xuống cổng đưa cho Q và nhận số tiền 1.800.000 đồng của Q. M cầm tiền lên tầng 2 đưa cho H, cùng H tiếp tục sử dụng hết số ma túy H đã bỏ ra trước đó, đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày thì M đi về nhà.

Đối với Bùi Văn Q, sau khi mua được ma túy của H, Q đi về nhà thì thấy có Lê Xuân T và Nguyễn Đức H cùng cư trú tại tổ dân phố T, phường M, thị xã H, tỉnh Hưng Yên đang ngồi chơi ở nhà mình. Khoảng 23 giờ ngày 04/5/2020, Q lấy một ít ma túy cho vào dụng cụ sử dụng ma túy đá gồm 01 ống thủy tinh, 01 chai nhựa, 03 ống hút nhựa và bật lửa ga để sử dụng ma túy. T và H xin được sử dụng cùng, Q đồng ý. Sau đó, Q chia số ma túy còn lại thành 06 túi, mỗi túi có kích thước (1x1,5)cm và cất giấu trong túi quần phía trước bên phải để bán lại cho người nghiện khác. Đến khoảng 08 giờ 20 phút ngày 05/5/2020, khi Q đang ở nhà cùng T và H thì Đỗ Tuấn I đến mua ma túy để về sử dụng. Q bán cho I 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng. Cùng lúc đó Q, I bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B bắt quả tang, thu giữ trong lòng bàn tay trái của I 01 túi ma túy I vừa mua của Q, thu trong túi trước bên phải quần Q đang mặc 05 gói ma túy và số tiền 300.000 đồng loại polime mệnh giá 100.000 đồng, là tiền Q vừa bán ma túy cho I. Đối với Nguyễn Hữu H và Phạm Đức M sau khi phạm tội đã trốn khỏi địa phương, đến ngày 13/8/2020, H, M đã đến Công an huyện B đầu thú.

Tại Kết luận giám định số 05/KLGĐ-PC09 ngày 05/5/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình kết luận : Chất dạng tinh thể trong suốt trong 05 túi nilon (M1) thu giữ của Bùi Văn Q gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,8186 gam; chất dạng tinh thể trong suốt trong 01 túi nilong (M2) thu giữ của Đỗ Tuấn I gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,1424 gam.

Tại bản án sơ thẩm số 45/2020/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện B:

- Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 BLHS; xử phạt Nguyễn Hữu H 34 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 13/8/2020.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106; Tịch thu tiêu huỷ 0,8108 gam Methamphetamine (mẫu vật hoàn lại sau giám định); Tịch thu tiêu hủy sim số 0983.171.460 của Nguyễn Hữu H và sim số 0964.369.828 của Bùi Văn Q;Tịch thu phát mại nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy S7 màu vàng của Bùi Văn Q;Truy thu số tiền 1.000.000 đồng là tiền bán điện thoại Iphone 7 của Nguyễn Hữu H nộp vào ngân sách nhà nước; Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 300.000 đồng thu giữ của Bùi Văn Q.

Ngoài ra cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo khác; án phí và quyền kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 21 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương kháng nghị bản án sơ thẩm với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tịch thu số tiền 2.300.000đ do bị cáo H bán ma túy mà có; áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo H.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

- Bị cáo H có mặt, trình bày bị cáo bán ma túy cho Bùi Văn Q được 2.300.000đ bị cáo đã tiêu xài hết. Về số tiền 142 triệu đồng chuyển vào tài khoản của bị cáo ngày 04-05/5/2020 đó là tiền bạn của bị cáo H chuyển nhờ, không phải tiền của bị cáo. Bị cáo không có ý kiến gì đối với kháng nghị của Viện kiểm sát, đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương trình bày giữ nguyên kháng nghị, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, xác định cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Hữu H về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên cấp sơ thẩm có một số vi phạm sau: Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng khoản 2 Điều 35, khoản 5 Điều 251 BLHS để quyết định hình phạt bổ sung đối với bị cáo H. Theo tài liệu trong hồ sơ vụ án thì tài khoản bị cáo H mở tại ngân hàng Vietcombank có số tiền chuyển đến trong ngày 04 và 05 tháng 5 năm 2020 là 142.070.000đ. Như vậy có căn cứ xác định bị cáo H có đủ điều kiện thi hành án khi áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Đối với số tiền 2.3000.000đ bao gồm 500.000đ chuyển khoản trước và 1.800.000đ thanh toán trực tiếp là tiền Q trả cho H để mua ma túy. Đây là số tiền H phạm tội mà có nhưng cấp sơ thẩm không tịch thu sung quỹ nhà nước là vi phạm. Trong vụ án, Q mua ma túy của H, bán ma túy cho I, Q không đồng phạm với H nhưng cấp sơ thẩm nhận định H giữ vai trò thứ nhất, Q giữ vai trò thứ hai, áp dụng Điều 17, Điều 58 BLHS để quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm đối với Q là không đúng. Do đó đề nghị HĐXX chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo H và quyết định truy thu số tiền 2.300.000đ do bị cáo H phạm tội mà có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng: Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương trong thời hạn quy định tại Điều 337 BLTTHS nên hợp lệ và được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung:

[1] Tòa án nhân dân huyện B xét xử bị cáo H về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội và xử phạt bị cáo 34 tháng tù là phù hợp. Về tội danh, hình phạt bị cáo không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.

[2] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương về quyết định hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng thì thấy: Nguyễn Hữu H và Bùi Văn Q thỏa thuận mua bán ma túy với giá 2.300.000đ. Q chuyển trước 500.000đ vào tài khoản của H, cùng ngày Q đến nhà H lấy số ma túy đã thỏa thuận và trả cho H 1.800.000đ (do M giao ma túy và nhận tiền hộ H). Như vậy xác định số tiền 2.300.000đ do H phạm tội mà có, số tiền này H đã tiêu xài hết nên cần truy thu sung quỹ nhà nước, cấp sơ thẩm không truy thu số tiền này là thiếu sót, có căn cứ chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát tỉnh về nội dung này. Về kháng nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo thì thấy: Theo bản sao kê tài khoản số 0341007046454 của Nguyễn Hữu H do Ngân hàng Vietconbank cung cấp thì từ ngày 04 đến ngày 05/05/2020, có 142.070.000đ chuyển đến tài khoản của H và 140.072.500đ chuyển đi từ tài khoản của H, số dư trong tài khoản đến ngày 05/5/2020 là 2.021.885đ. Tại phiên tòa bị cáo xác định số tiền chuyển đến tài khoản của bị cáo trong ngày 04 đến 05/5/2020 do bạn bị cáo nhờ chuyển hộ, sau đó bị cáo đã chuyển tiền đi ngay. Lời khai của bị cáo phù hợp với bản sao kê tài khoản do ngân hàng cung cấp. Do đó xác định số tiền trong tài khoản không phải của bị cáo, mặt khác bị cáo không có tài sản, lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định, nên cấp sơ thẩm không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp, không có cơ sở chấp nhận kháng nghị về phần này.

[3] Trong vụ án Q mua ma túy của H, sau đó Q bán ma túy cho I. Q và H không có sự bàn bạc hay thỏa thuận gì, Q bán ma túy cho I để tự kiếm lời, là hành vi phạm tội độc lập. Đây không phải vụ án đồng phạm nên cấp sơ thẩm đánh giá vai trò của H, Q và áp dụng Điều 17, Điều 58 khi quyết định hình phạt đối với hai bị cáo là không đúng, cần sửa án sơ thẩm về điều luật áp dụng.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm d khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự:

1. Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương; sửa bản án sơ thẩm số 45/2020/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hải Dương về quyết định xử lý vật chứng và áp dụng điều luật.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS đối với bị cáo Bùi Văn Q; xử phạt Bùi Văn Q 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/5/2020.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Hữu H, xử phạt Nguyễn Hữu H 34 (ba mươi bốn) tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 13/8/2020.

4. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, b khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

- Tịch thu tiêu huỷ 0,8108 gam Methamphetamine (mẫu vật hoàn lại sau giám định):

- Tịch thu tiêu hủy sim số 0983.171.460 của Nguyễn Hữu H và sim số 0964.369.828 của Bùi Văn Q:

- Tịch thu phát mại nộp vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy S7 màu vàng của Bùi Văn Q:

- Truy thu, sung quỹ nhà nước số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) tiền bán điện thoại Iphone 7 và số tiền 2.300.000đ (Hai triệu ba trăm nghìn đồng) tiền bán ma túy của Nguyễn Hữu H.

- Tịch thu, sung quỹ nhà nước số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) thu giữ của Bùi Văn Q.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 10/9/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B).

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 19/11/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2020/HS-PT ngày 19/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:116/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về