Bản án 116/2020/HS-PT ngày 13/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 116/2020/HS-PT NGÀY 13/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 103/2020/HS-PT ngày 16 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Trần Xuân P, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2020/HS-ST ngày 10/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình.

Bị cáo Trần Xuân P sinh ngày 17 tháng 12 năm 1987, tại xã Thượng H, huyện Minh H1, tỉnh Quảng Bình; nơi thường trú: Bản Ó, xã Thượng H, huyện Minh H1, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: sản xuất nông nghiệp; trình độ học vấn: Lớp 6/12; dân tộc: Sách; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân T và bà Cao Thị L; có vợ và hai con; tiền án: Năm 2017 bị Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa xử phạt 14 tháng tù về tội hủy hoại tài sản, chấp hành án xong ngày 26/9/2018; tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2004 phạm tội trộm cắp tài sản, bị Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa áp dụng biện pháp tư pháp 12 tháng giáo dục tại xã, năm 2006 phạm tội trộm cắp tài sản bị Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa xử phạt 15 tháng tù, năm 2011 phạm tội bắt giữ người trái pháp luật bị Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa xử phạt 13 tháng tù, năm 2012 có hành vi cố ý gây thương tích bị Công an huyện Minh Hóa phạt hành chính 1 triệu đồng, năm 2017 có hành vi cố ý gây thương tích bị công an huyện Minh Hóa xử phạt hành chính; ngày 23/5/2020 bị bắt tạm giữ, sau đó chuyển qua tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Minh Hóa; có mặt tại phiên tòa phúc thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Thanh H3, trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Bình; Có mặt tại phiên tòa phúc thẩm.

Những người tham gia tố tụng khác được triệu tập tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy không cần thiết triệu tập đến phiên tòa phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ ngày 21/5/2020, Trần Xuân P mang theo một con dao dài khoảng 40cm, cùng với em trai của mình là Trần Xuân H4 đi từ nhà ở Bản Ó vào lán trại bảo vệ hoa màu của gia đình mình ở khu vực rừng X thuộc bản Ó, xã Thượng H, huyện Minh H1. Tại đây P và H4 ngồi uống rượu với nhau. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Trần Xuân H5 và Cao Xuân T1 cùng ở bản Ó đi rừng về thấy P, H4 đang ngồi uống rượu trong lán, nên rủ P, H4 cùng đi lấy mật ong. P và H4 đồng ý. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, cả bốn người đi lấy mật ong rừng về lại lán của gia đình P và cùng nhau uống rượu. Một lúc sau T1 và H5 đem mật ong đi bán, còn H4 và P ở lại lán đợi. Khoảng 30 phút sau không thấy T1 và H5 quay về lán, nên H4 đi tìm, còn P ở lại một mình. Lúc này P nảy sinh ý định tìm bò của dân để giết lấy thịt. P lấy khẩu súng kíp tự chế cất giấu trong bụi cây từ trước, con dao mang sẵn từ nhà và một bao tải đi ra khu vực đồng Đ thuộc Bản Ó, tại đây P phát hiện một đàn bò, trong đó có một con bò đực lông màu đen đang ăn cỏ, không có người chăn dắt. P cầm khẩu súng kíp đã lên đạn từ trước rồi lẻn tiến đến cách vị trí con bò khoảng 20m, nhắm vào vị trí vùng cổ sát đầu của con bò rồi bắn một phát làm con bò chết tại chỗ. Sau đó P dùng dao cắt 4 đùi bò bỏ vào bao lác rồi đem đi cất giấu ở bụi cây gần đó. Tiếp đó P đi lấy thêm một bao lác để vào tiếp tuc lấy thịt bò thì gặp Trần Xuân H4, Nguyễn Văn H6 và bà Nguyễn Thị H7 là mẹ của Nguyễn Văn H6, cùng là người ở bản Ó. Sợ bị phát hiện nên P nói với ba người trên là “Có bò ai chết”, rồi P nói với bà H7 “lấy người một ít về ăn”, nhưng bà H7 không đồng ý. Sau đó, P dùng dao cắt lấy mảng sườn bò khoảng 1kg rồi đem ra ngoài đồng nướng ăn. Đến khi bà H7 và H6 đi về thì P nói cho H4 biết con bò này do P giết chết nên nhờ H4 cùng giúp để cắt và tách số thịt bò còn lại. H4 đồng ý. P dùng dao cắt đầu, xẻ thịt và các bộ phận còn lại của con bò bỏ vào bao lác đem đi cất giấu, còn H4 lấy khẩu súng kíp của P cất giấu trong bụi cây. Sau đó P và H4 cùng nhau xóa các dấu vết tại hiện trường bằng cách bốc phân bò ra vứt xung quanh, rồi gom củi đốt ở địa điểm vừa mổ thịt bò. Sau khi xóa các dấu vết tại hiện trường xong, P và H4 cùng nhau về lán trại của gia đình mình. Đến khoảng 18 giờ 30 phút ngày 22/5/2020, P và H4 cùng nhau đi đến địa điểm cất giấu số thịt bò mà P đã cất giấu trước đó để mang về nhà thì bị lực lượng công an phát hiện. H4 vác bao thịt bò chạy trốn, còn P bị bắt giữ cùng tang vật.

Bản kết luận giám định tài sản số 19/KLGĐ-HĐĐG ngày 26/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Minh Hóa kết luận: Trị giá con bò đực một năm tuổi, lông màu đen, giống bò lai tại thời điểm bị mất trộm ngày 21/5/2020 là 15 triệu đồng.

Vật chứng vụ án, cơ quan điều tra đã tạm giữ:

- 39 kg bộ phận cơ thể bò, gồm 12 kg đầu và vai bò; 15 kg chân bò; 9kg sườn và đuôi bò; 3kg nội tạng;

- Hai bao bì tổng hợp màu trắng xanh, kích thước 87cm x 47cm, đã qua sử dụng;

- Một khẩu súng tự chế, loại súng kíp có chiều dài 1,8m; báng súng làm bằng gỗ dài 0,6m, rộng 0,11m; nòng súng làm bằng kim loại dài 1,47m, đường kính nòng 0,013m; súng đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng chi tiết bên trong;

- Hai viên kim loại màu xám bạc, không rõ hình thức, kích thước mỗi viên đường kính 5mm, bề dày 2mm;

- Một điện thoại di động MOBELL màu đen, điện thoại đã qua sử dụng;

- Một đèn LED đội đầu màu xám, đã qua sử dụng;

- Một đèn LED đội đầu màu mận, đã qua sử dụng;

Về xử lý vật chứng, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại 39 kg bộ phận cơ thể bò đựng trong một bao bì tổng hợp cho ông Đinh Văn H8.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Đinh Văn H8 yêu cầu Trần Xuân P bồi thường thiệt hại số tiền trị giá con bò bị giết trộm là 15 triệu đồng, do 39kg bộ phận cơ thể bò mà ông H8 nhận lại không còn giá trị sử dụng, phải mang đi tiêu hủy.

Bản Cáo trạng số: 29/CT-VKSMH ngày 05 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hóa truy tố Trần Xuân P về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; riêng Trần Xuân H4 hiện đang bỏ trốn, chưa xử lý.

Bản án số 37/2020/HS-ST ngày 10/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa đã quyết định:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Xuân P phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Xuân P 20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/5/2020.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy một khẩu súng tự chế, loại súng kíp có chiều dài 1,8m, báng súng làm bằng gỗ dài 0,6m, rộng 0,11m, nòng súng làm bằng kim loại dài 1,47m, đường kính nòng 0,013m, súng đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng chi tiết bên trong; hai viên kim loại màu xám bạc, không rõ hình thù, kích thước, mỗi viên đường kính 5mm, bề dày 2mm; một bao bì tổng hợp màu trắng xanh, kích thước 87cm x 47cm, đã qua sử dụng; một đèn LED đội đầu màu xám, đã qua sử dụng; một đèn LED đội đầu màu mận, đã qua sử dụng.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự trả lại cho bị cáo một điện thoại di động MOBELL màu đen, điện thoại đã qua sử dụng.

3. Về trách nhiệm dân sự, căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Trần Xuân P phải bồi thường cho bị hại ông Đinh Văn H8 số tiền 15.000.000 đồng.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc Trần Xuân P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào Ngân sách nhà nước, miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Án sơ thẩm còn tuyên quyền kháng cáo, việc chịu lãi đối với tiền bồi thường chậm thi hành, quyền thỏa thuận, yêu cầu, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, vấn đề thời hiệu thi hành án theo Luật Thi hành án dân sự.

Ngày 21/9/2020 bị cáo Trần Xuân P có đơn kháng cáo, nội dung đề nghị được giảm nhẹ hình phạt, vì cho rằng mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là quá cao.

Tại phiên toà phúc thẩm:

Đại diện Viểm kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm, vì mức án mà Tòa án sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp; tại phiên tòa hôm nay không có tình tiết gì mới để xem xét thêm cho bị cáo.

Trợ giúp pháp lý bào chữa cho bị cáo phát biểu ý kiến, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ, quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng. Đó là bị cáo thuộc hộ nghèo, kinh tế gặp khó khăn, không có việc làm ổn định, là lao động chính trong gia đình và bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng. Ngoài ra trợ giúp pháp lý còn đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Nội dung vụ án mà Bản án sơ thẩm xác định hoàn toàn phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo Trần Xuân P tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay. Do đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi phạm tội mà bị cáo Trần Xuân P đã thực hiện đúng như xác định tại Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa và tại phần nội dung vụ án mà cấp phúc thẩm đã xác định ở phần trước.

[2]. Hành vi lén lút bắn chết một con bò trị giá 15 triệu đồng, mổ thịt đưa đi cất giấu để sử dụng của bị cáo Trần Xuân P là phạm tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy việc án sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự về tội trộm cắp tài sản để xử phạt bị cáo là đúng pháp luật.

[3]. Về ý kiến của người bào chữa cho bị cáo đề nghị cấp phúc thẩm áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, thấy rằng các tình tiết bị cáo thuộc hộ nghèo, kinh tế khó khăn, không có việc làm ổn định, lao động chính trong gia đình chỉ là các tình tiết có ý nghĩa trong việc xem xét cho bị cáo được hoãn thi hành án, không phải là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tình tiết bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng cũng không thể coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự được, vì hành vi phạm tội của bị cáo đã được xem xét định khung hình phạt thì không thể xem xét thêm một lần nữa với ý nghĩa là tình tiết giảm nhẹ.

[4]. Bị cáo có nhân thân rất xấu, phạm tội trong trường hợp tái phạm, tài sản chiếm đoạt trị giá 15 triệu đồng, cao hơn mức khởi điểm của khung hình phạt nhiều lần; mặt khác việc giết trộm gia súc thả rông lấy thịt ngoài việc gây nguy hiểm cho xã hội ở khía cạnh xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, còn gây nguy hiểm cho xã hội ở khía cạnh gây khó khăn, gây tâm lý hoang mang, lo lắng, không dám đầu tư sản xuất chăn nuôi theo cách thức chăn thả trâu bò truyền thống đang mang lại hiệu quả kinh tế ở một số địa phương của tỉnh. Do đó tuy bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là đã khai báo thành khẩn, người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhưng với các phân tích trên, thấy rằng mức hình phạt 20 tháng tù đối với bị cáo là không nặng. Do đó không thể chấp nhận kháng cáo của bị Trần Xuân P, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Trần Xuân P.

[5]. Về đơn xin miễn án phí của bị cáo và ý kiến của người bào chữa, thấy rằng theo khoản 2 Điều 12 Nghị Quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì trường hợp quy định miễn án phí, lệ phí Tòa án chỉ miễn đối với lệ phí Tòa án theo khoản 1 Điều 4 Nghị Quyết. Vì vậy không thể chấp nhận đơn xin miễn án phí của bị cáo và ý kiến về vấn đề này của người bào chữa.

[6]. Các nội dung khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cần được giữ nguyên.

[7]. Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Xuân P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm như sau:

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Xuân P 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt tạm giữ 23/5/2020.

2. Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Xuân P 45 ngày để bảo đảm thi hành án (có Quyết định tạm giam riêng).

3. Bị cáo Trần Xuân P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2, luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9, 7a, 7b Luật thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (13/11/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2020/HS-PT ngày 13/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:116/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về