TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ X, TỈNH AN GIANG
BÁN ÁN 116/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 14 tháng 9 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thành phố X xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 352/2020/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số: 253/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2020 và Quyết Đ hoãn phiên tòa số: 265/2020/QĐST-HNGĐ ngày 26/8/2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ngọc B, sinh năm 1979. Có mặt Địa chỉ: Số 796/10C, khóm Tây Khánh 6, phường M, thành phố X, tỉnh An Giang.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Chí Đ, sinh năm 1978. Có mặt Địa chỉ: Số 796/10C, khóm Tây Khánh 6, phường M, thành phố X, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/6/2020 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc B trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Năm 2000, chị Lê Thị Ngọc B và anh Nguyễn Chí Đ quen biết, tìm hiểu và tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, thành phố X, tỉnh An Giang vào ngày 15/9/2000, đây là hôn nhân lần thứ nhất của chị B và anh Đ. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được 19 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, anh Đ có tính gia trưởng, thường xuyên có những lời lẽ xúc phạm, tạo áp lực tinh thần cho chị B, cả hai đã nhiều lần hàn gắn nhưng không có kết quả. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên chị B yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đ.
Về quan hệ con chung: Chị B và anh Đ có 01 con chung tên Nguyễn Lê Thiện T, sinh ngày 30/3/2001. Hiện con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động, sinh sống.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Tại bản tự khai ngày 22/6/2020, bị đơn Nguyễn Chí Đ trình bày: Anh thống nhất với chị B về thời gian tìm hiểu và đăng ký kết hôn. Về mâu thuẫn trong hôn nhân, vợ chồng không mâu thuẫn gay gắt, chỉ cự cãi do bất đồng quan điểm nên anh không đồng ý ly hôn, yêu cầu được hàn gắn quan hệ hôn nhân với chị B. Về con chung: Thống nhất có 01 con chung tên Nguyễn Lê Thiện T, sinh ngày 30/3/2001, con đã trưởng thành, khỏe mạnh, có khả năng tự lập. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không có.
Tại phiên tòa Hôn nhân và gia đình sơ thẩm:
Nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc B vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ, vì chị B rất sợ phải về chung sống với anh Đ, vì vợ chồng có nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn; Về con chung: Con đã trưởng thành, khỏe mạnh; Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
Bị đơn anh Nguyễn Chí Đ không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị B, yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh và chị B đoàn tựu để lo cho gia đình và con. Về con chung: Con đã trưởng thành, khỏe mạnh. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng Tranh chấp giữa nguyên đơn Lê Thị Ngọc B và bị đơn Nguyễn Chí Đ là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Bị đơn Nguyễn Chí Đ có đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường M, thành phố X nên nguyên đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố X theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung tranh chấp Về quan hệ hôn nhân: Năm 2000, chị B và anh Đ tiến đến hôn nhân xuất phát từ sự nguyện, có đăng ký kết hôn theo qui Đ của pháp luật, phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, quá trình chung sống, chị B cho rằng giữa chị và anh Đ phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thiếu chia sẻ, cảm thông nhau trong đời sống vợ chồng, anh Đ có tính gia trưởng, thường có lời lẽ xúc phạm chị dù chỉ là một vài chuyện nhỏ nhặt, chính điều này đã tạo cho chị bị áp lực về tinh thần, lo sợ, mất ngủ nhưng từ khi sống ly thân khoảng 03 tháng nay thì tình trạng trên đã ổn định. Riêng, anh Đ cho rằng mâu thuẫn vợ chồng không trầm trọng, anh vẫn còn thương vợ con nên yêu cầu được đoàn tựu với chị B.
Xét thấy, trong hôn nhân vợ chồng phải thể hiện tình cảm yêu thương, quan tâm chăm sóc, tin tưởng nhau và chia sẻ những khó khăn để vượt qua thử thách, đây là cơ sở vững chắc để bồi đắp cho hôn nhân, cho gia đình hạnh phúc. Giữa chị B và anh Đ đã có thời gian quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân xuất phát từ tình cảm yêu thương, nhưng khi đã thành vợ chồng thì cả hai không xây dựng gia đình hạnh phúc, không tôn trọng nhau trong cách cử xử thường ngày. Anh Đ thừa nhận giữa anh và chị B có mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng nhưng anh Đ cho rằng mâu thuẫn chị B nêu trên là không trầm trọng và không đồng ý ly hôn. Đối với yêu cầu của anh Đ, để tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng, Tòa án đã cho anh Đ thời gian xoa dịu những mâu thuẫn với chị B nhưng không có kết quả. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tiếp tục hòa giải, động viên, thuyết phục chị B hàn gắn lại tình cảm hôn nhân với anh Đ nhưng chị B vẫn kiên quyết yêu cầu giải quyết ly hôn, điều này thể hiện hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, việc chị B yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Về con chung: Chị B và anh Đ thống nhất có 01 con chung tên Nguyễn Lê Thiện T, sinh ngày 30/3/2001. Hiện con chung đã trưởng thành, khỏe mạnh.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 235; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Ngọc B đối với bị đơn Nguyễn Chí Đ.
Chị Lê Thị Ngọc B được ly hôn với anh Nguyễn Chí Đ.
[2] Về con chung: Chị B và anh Đ có 01 con chung tên Nguyễn Lê Thiện T, sinh ngày 30/3/2001. Hiện con chung đã trưởng thành, khỏe mạnh.
[3] Về tài sản chung: Không xem xét, giải quyết.
[4] Về nợ chung: Không có.
[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc B phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003163 ngày 22/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X. Nguyên đơn đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí.
[6] Về quyền kháng cáo Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bán án 116/2020/HNGĐ-ST ngày 14/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 116/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về