Bản án 116/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 116/2019/HS-ST NGÀY 04/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 123/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng Anh T (tên gọi khác: Quậy), sinh năm 1997 tại Bình Dương; nơi cư trú khu phố P, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam, tôn giáo: Phật giáo, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1956 và bà Bùi Thị Mộng T, sinh năm 1965, bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân: Ngày 14/8/2019, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Đ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 102 với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/6/2019 cho đến nay “có mặt”.

Người bị hại: Anh Mai Đức H, sinh năm 1998; nơi cư trú số 357 Nguyễn H, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Lê Thanh T, sinh năm 1975; nơi cư trú khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có đơn xin xét xử vắng mặt”;

Chị Bùi Thị Mộng T, sinh năm 1965; nơi cư trú tổ 3, khu phố Phước Tân, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 14/6/2019, Nguyễn Hoàng Anh T nhờ bạn gái tên Nguyễn Thị Minh Tâm chở đến cổng Công ty giầy da Puma khu Công nghiệp Đ, thuộc khu phố 02, phường T, thành phố Đ để phát tờ rơi quảng cáo quán bar NewLatin, sau đó Tâm điều khiển xe mô tô đi về, còn T và anh Mai Đức H đứng trước cổng công ty để phát tờ rơi, trong lúc phát tờ rơi thì anh H lấy điện thoại hiệu Iphone 8 Plus ra xem rồi bỏ trong túi áo khoác. Lúc này T nảy sinh ý định định lấy trộm điện thoại của anh H để bán lấy tiền tiêu xài. T đứng phía sau lấy điện thoại trong túi áo khoác của anh H bỏ vào túi quần của mình đang mặc. Đến 09 giờ ngày 15/6/2019 T đem điện thoại đến tiệm “Thanh T” thuộc khu phố T, phường T, thành phố Đ bán lấy số tiền 5.000.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết. Ngày 17/6/2019, anh H đã đến Công an phường T, thành phố Đ tố cáo T, cùng ngày T đã đến Công an phường T đầu thú.

Tại kết luận định giá tài sản số 99/KLĐG ngày 19/6/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Đ kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu đỏ 64Gb, số Imei: 359500086437684 tình trạng máy đã qua sử dụng còn mới, hoạt động bình thường, có giá bán trên thị trường 11.000.000 đồng.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu đen; 01 điện thoại hiệu Iphone 8 Plus màu đỏ.

Ngày 24/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 điện thoại hiệu Iphone 8 Plus 64Gb màu đỏ cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Mai Đức H.

Tại Bản cáo trạng số 122/CT-VKS-ĐX ngày 28/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Anh T mức án từ 12 đến 15 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Tại phiên tòa bị cáo không có yêu cầu nhận lại chiếc điện thoại Iphone 5 màu đen đã cũ, không lên nguồn nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo T tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 122/CT-VKS ngày 28/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; biên bản người phạm tội ra đầu thú, biên bản thu giữ đồ vật, tài liệu, kết luận điều tra, cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Lợi dụng anh Mai Đức H sơ hở trong việc để chiếc điện thoại Iphone 8 Plus màu đỏ trong túi áo khoác khi phát tờ rơi tại cổng Công ty giầy da Puma khu Công nghiệp Đ, thuộc khu phố 02, phường T, thành phố Đ nên khoảng 17 giờ ngày 14/6/2019 Nguyễn Hoàng Anh T đã lén lút lấy trộm sau đó đem đến tiệm cầm đồ “Thanh T” thuộc khu phố T, phường T, thành phố Đ bán lấy số tiền 5.000.000 đồng.

Tại kết luận định giá tài sản số 99/KLĐG ngày 19/6/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Đ kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus màu đỏ 64Gb, số Imei: 359500086437684 tình trạng máy đã qua sử dụng còn mới, hoạt động bình thường, có giá bán trên thị trường 11.000.000 đồng.

Căn cứ vào hành vi bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 11.000.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Bị cáo là người đã thành niên, hoàn toàn nhận thức được việc lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để lén lút chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội nhưng vì mục đích vụ lợi cá nhân mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại, là khách thể được pháp luật bảo vệ, vì vậy cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội bị cáo gây ra mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Bị cáo được xem xét các tình tiết giảm nhẹ như trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi phạm tội đã tự nguyện ra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường khắc phục thiệt hại, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

Đối với anh Lê Thanh T là người mua điện thoại hiệu Iphone 8 Plus 64Gb, màu đỏ của T nhưng anhT không biết điện thoại do bị cáo phạm tội mà có nên không đặt vấn đề xử lý.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại anh Mai Đức H đã nhận lại được tài sản bị chiếm đoạt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Thanh T đã được bà Bùi Thị Mộng T là mẹ ruột của bị cáo bồi thường thay số tiền 5.000.000 đồng. Anh H và anh T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, bà T cũng không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại số tiền đã bồi thường cho T nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về vật chứng vụ án: Đối với chiếc điện thoại Iphone 5 màu đen là tài sản thu giữ của bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo không có yêu cầu nhận lại mà đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy. Xét yêu cầu của bị cáo là tự nguyện, chiếc điện thoại đã cũ và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Anh T 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/6/2019.

3. Về trách nhiệm dân sư:

Do các bên không ai có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét;

4. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc điện thoại Iphone đen không kiểm tra được tình trạng máy móc bên trong, đã cũ, không còn giá trị sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0001717, quyển số 0035, ký hiệu D47/2017 ngày 30/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Đ).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

6. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo; người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

271
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:116/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về