Bản án 116/2019/HSPT ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 116/2019/HSPT NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Mở phiên tòa ngày 26/3/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, để xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 73/2019/HSPT ngày 12/02/2019 đối với bị cáo Dương Sinh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số 01/2019/HSST ngày 03/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Dương Sinh T - Sinh ngày: 25/5/1970 tại: tỉnh Thái Nguyên; Nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch:Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/10; Con ông: Dương Văn L (đã chết); con bà: Vũ Thị H (đã chết); Bị cáo có vợ tên là Trần Thị Đ, sinh năm: 1982 và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2015, hiện đều trú tại: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Lâm Đồng. Tiền án, tiền sự: Không

Nhân thân:

- Ngày 06/12/1999, bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm tuyên phạt 02 năm tù về tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải (tại bản án số 1843/HSST).

- Ngày 23/11/2000, bị Tòa án nhân dân huyện Từ Liêm, thành phố Hà nội xét xử sơ thẩm tuyên phạt 42 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (tại bản án số 105/HSST).

- Ngày 30/6/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm tuyên phạt 07 năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy (tại bản án số 15/2009/HSST). Ngày 03/10/2014, chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/9/2018, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Sinh T là đối tượng nghiện ma túy. Ngày 06/9/2018, T đi đến thị trấn A, tỉnh Lâm Đồng gặp đối tượng nam giới (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mua ma túy loại Heroine với giá 2.000.000đ để sử dụng. Đến khoảng 8h00’ ngày 09/9/2018, T đến gặp anh Lại Mạnh Th, trú tại: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Lâm Đồng thuê xe ô tô hiệu Mitsubishi Jolie, màu xám trắng, biển số 81A – 119.64 để đi đón vợ là chị Trần Thị Đ tại sân bay B. Lúc này, T lấy 01 gói giấy bạc chứa ma túy còn lại chưa sử dụng cùng 03 ống kim tiêm bằng nhựa, 02 lọ nước cất bỏ vào ví da màu nâu và giấu trong hộp để đồ của xe ô tô rồi điều khiển xe ô tô chở theo chị Trương Thị H và chị Bùi Thị H đi từ huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đến sân bay B. Sau khi đón được chị Đ (là vợ T), thì T tiếp tục điều khiển xe ô tô chở chị Đ, chị H và chị G đi đến Siêu thị Điện Máy Xanh và Siêu thị C, đường N, thành phố B mua sắm và ăn uống. Đến khoảng 14h00’ cùng ngày khi đi đến đường Nguyễn Tất T giao với đường T phường L, thành phố B thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố Buôn Ma Thuột phối hợp với Lực lượng Cảnh sát giao thông Công an thành phố Buôn Ma Thuột kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ: 01 ví da hình chữ nhật, màu nâu bên trong có: 01 gói giấy bạc chứa chất rắn dạng cục màu trắng, T khai là ma tuý loại Heroine đã niêm phong theo quy định; 03 ống kim tiêm bằng nhựa, có nắp đậy đầu kim màu đỏ, trong đó một ống đã sử dụng; 01 vỏ thủy tinh ghi chữ “Nước cất tiêm” đã sử dụng và 01 lọ thủy tinh chứa nước cất tiêm còn nguyên.

Tại bản kết luận giám định số: 801/GĐMT- PC09 ngày 13/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn dạng cục đựng trong 01 gói giấy bạc thu giữ của Dương Sinh T được niêm phong gửi giám định là ma tuý, loại ma tuý Heroine, khối lượng 0,6996 gam.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 01/2019/HSST ngày 03/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:

Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Dương Sinh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt: Dương Sinh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, tạm giữ ngày 09/9/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 08/01/2019, bị cáo Dương Sinh T làm đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Dương Sinh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, vì vậy đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xin giữ nguyên nội dung kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo. HĐXX xét thấy:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai mà bị cáo khai tại phiên tòa sơ thẩm, tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập, đánh giá trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng 14h00’ ngày 09/9/2018, tại khu vực đường T giao với đường N, phường T, thành phố B, Dương Sinh T có hành vi tàng trữ trái phép 0,6996 gam ma túy loại Heroine với mục đích để sử dụng thì bị cơ quan Công an bắt quả tang.

Xét mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Bởi lẽ, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, hiện đang nuôi 2 con nhỏ, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ vừa qua mức khởi điểm định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt với mức tương xứng cũng đủ tác dụng trừng trị, cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Về án phí: Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Dương Sinh T – Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 01/2019/HSST ngày 03/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Xử phạt: Dương Sinh T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, tạm giữ ngày 09/9/2018.

2. Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2019/HSPT ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:116/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về