Bản án 116/2019/HNGĐ-ST ngày 10/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 116/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 236/2019/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2019 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 102/2019/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn C, xã M, huyện T, thành phố H; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Bùi Văn M, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn C, xã M, huyện T, thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 27/02/2019 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị N trình bày:

1. Về hôn nhân:

Chị N và anh Bùi Văn M kết hôn với nhau vào năm 2012 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn ngày 22/02/2012 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh H. Sau cưới, chị chuyển khẩu về gia đình anh M sinh sống tại Thôn C, xã M, huyện T, thành phố H. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận và có một con chung, đến tháng 6 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình tham gia hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2018 cho đến nay và không còn quan tâm nhau. Nay chị xác định không còn tình cảm, không còn khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh M.

2. Về con chung:

Chị N trình bày chị và anh M có một con chung tên là Bùi Minh K sinh ngày 08/4/2014. Chị trực tiếp nuôi con từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Khi ly hôn, chị đề nghị được tiếp tục nuôi con. Cấp dưỡng nuôi con chung để chị và anh M tự thỏa thuận giao nhận với nhau nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung:

Chị N trình bày chị và anh M có tài sản chung để tự giải quyết với nhau nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Bùi Văn M là bị đơn trong vụ án, cho đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai vẫn không có ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành pháp luật, bị đơn không chấp hành pháp luật. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị N và anh Bùi Văn M; về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi con chung tên là Bùi Minh K sinh ngày 08/4/2014 cho đến khi con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị N vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn là anh Bùi Văn M vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị N và anh Bùi Văn M đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 05 đăng ký ngày 22/02/2012 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh H). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn từ năm 2018 và đã sống ly thân từ cuối năm 2018 cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Anh Bùi Văn M vẫn sinh sống, làm việc tại địa phương xã M, anh M biết việc chị N yêu cầu ly hôn tại Tòa án song anh M không trình bày quan điểm. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị N yêu cầu ly hôn, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị N được ly hôn anh M.

[3]. Về con chung: Chị N và anh M có một con chung tên là Bùi Minh K sinh ngày 08/4/2014. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, chị N trực tiếp nuôi con từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, việc nuôi con đã ổn định và được đảm bảo tốt về mọi mặt, khi ly hôn chị N đề nghị được tiếp tục nuôi con, anh M không có ý kiến. Do vậy, cần giao con chung cho chị N trực tiếp nuôi là phù hợp với các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị N đề nghị để chị và anh M tự thỏa thuận giao nhận với nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Chị N trình bày chị và anh M có tài sản chung để tự giải quyết với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[6]. Về án phí: Chị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị N và anh Bùi Văn M.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi con chung tên là Bùi Minh K sinh ngày 08/4/2014 cho đến khi con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị N trình bày chị và anh Bùi Văn M có tài sản chung để tự giải quyết với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000501 ngày 01/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố H. Chị Nguyễn Thị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2019/HNGĐ-ST ngày 10/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:116/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về