Bản án 116/2019/DS-PT ngày 24/05/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 116/2019/DS-PT NGÀY 24/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 24 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 264/2018/TLPT-DS ngày 03/12/2018 về việc “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 83/2018/DS-ST ngày 19/9/2018 của Tòa án nhân dân thị xã DA, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 14/2019/QĐPT-DS ngày 11 tháng 01 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1965; thường trú: Ấp Đ, xã T, huyện CT, tỉnh Bến Tre. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu H, sinh năm 1976; thường trú: Ấp 5, xã K, huyện CT, tỉnh Bến Tre; tạm trú: khu phố TN1, phường DA, thị xã DA, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Quang T, sinh năm 1976; địa chỉ:, khu phố 2, phường T, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; địa chỉ liên lạc, Phường 10, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Là người đại diện theo ủy quyền (theo văn bản ủy quyền ngày 12/6/2018). Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trương Thị Ngọc K, sinh năm 1987; địa chỉ: khu phố TN1, phường DA, thị xã DA, tỉnh Bình Dương. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Ông Văn Công H, sinh năm 1961; thường trú: Ấp Đ, xã T, huyện CT, tỉnh Bến Tre. Có mặt.

- Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Hữu H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 16/5/2018, đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D trình bày:

Bà Nguyễn Thị Ngọc D và ông Nguyễn Hữu H có mối quan hệ là chị em ruột với nhau. Từ khoảng tháng 02/2015, giữa nguyên đơn và bị đơn có quan hệ mua bán hàng hóa là trái dừa, việc mua bán hai bên chỉ thỏa thuận bằng miệng, không ký kết hợp đồng mua bán hay bất kỳ văn bản nào, giá mua bán giao động tùy từng thời điểm trên thị trường, hai bên tiến hành mua bán qua hình thức khi bị đơn có nhu cầu mua trái dừa thì nguyên đơn sẽ giao hàng cho bị đơn, địa điểm giao hàng tại nhà nguyên đơn ở Ấp Đ, xã T, huyện CT, tỉnh Bến Tre, khi giao hàng nguyên đơn có xuất hóa đơn nhưng không có sự xác nhận của bị đơn. Đến tháng 9/2016, hai bên đã chính thức kết thúc hợp đồng mua bán vì bị đơn đã nhiều lần không thanh toán tiền mua hàng, số tiền bị đơn còn thiếu khi kết thúc hợp đồng là 301.000.000 đồng.

Tuy nhiên, vào tháng 10/2016 bị đơn đã chuyển khoản thanh toán được 100.000.000 đồng, còn nợ lại 201.000.000 đồng, do là chị em ruột tin tưởng nhau nên số tiền còn thiếu 201.000.000 đồng hai bên không có ký xác nhận. Nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu bị đơn thanh toán nhưng bị đơn cố tình không trả. Vì vậy, trong những lần hai bên nói chuyện thông qua các cuộc gọi điện thoại, nguyên đơn đã ghi âm lại, mục đích ghi âm để xác nhận số tiền bị đơn còn thiếu. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải trả số tiền còn nợ là 201.000.000 đồng và tiền lãi là 47.737.500 đồng.

Tại đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số tiền mua hàng còn nợ là 201.000.000 đồng, không yêu cầu tiền lãi.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bị đơn phải trả số tiền mua hàng còn nợ là 200.000.000 đồng, không yêu cầu tiền lãi.

- Tại bản tự khai ngày 14/6/2018, lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của bị đơn là ông Trần Quang T trình bày:

Thống nhất phần trình bày của nguyên đơn về thời gian hai bên thỏa thuận mua bán hàng hóa là trái dừa, thỏa thuận bằng miệng không ký kết hợp đồng, giá theo giá cả của thị trường tại thời điểm đặt hàng, địa điểm giao hàng tại nhà nguyên đơn ở (Ấp Đ, xã T, huyện CT, tỉnh Bến Tre), phương thức đặt hàng và giao hàng. Bị đơn thỏa thuận mua bán trái dừa với tư cách là cá nhân, không liên quan đến vợ là bà Trương Thị Ngọc K. Vào tháng 9/2016 do nguyên đơn đơn phương không cung cấp trái dừa, vì vậy hai bên đã chính thức kết thúc thỏa thuận việc mua bán. Khi kết thúc hợp đồng bị đơn còn nợ lại của nguyên đơn số tiền khoảng 100.000.000 đồng nhưng bị đơn đã gặp trực tiếp và thanh toán hết số tiền còn thiếu cho nguyên đơn tại nhà nguyên đơn (Ấp Đ, xã T, huyện CT, tỉnh Bến Tre), việc thanh toán không có lập giấy tờ. Đối với các file ghi âm mà nguyên đơn cung cấp thì bị đơn thống nhất giọng nói là của bị đơn, tuy nhiên vào các lần nguyên đơn ghi âm thì bị đơn có uống rượu nên không nhớ đã nói nội dung như thế nào, về thời gian ghi âm thì bị đơn không thống nhất, còn số tiền trong các file ghi âm do nguyên đơn tự đưa ra mà không có sự thừa nhận của bị đơn. Đối với yêu cầu khởi kiện, thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì phía bị đơn không đồng ý.

- Tại bản tự khai ngày 14/6/2018, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị Ngọc K trình bày:

Bà Trương Thị Ngọc K và ông Nguyễn Hữu H có mối quan hệ là vợ chồng. Quan hệ mua bán hàng hóa giữa chồng bà K và bà Nguyễn Thị Ngọc D thì bà K không được biết, mọi việc đều do chồng bà Kiều tự quyết định, không liên quan đến bà K. Nay nguyên đơn khởi kiện thì bà đồng ý và thống nhất theo ý kiến của bị đơn ông H.

- Tại bản tự khai ngày 14/6/2018, lời khai trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Văn Công H trình bày:

Thống nhất toàn bộ phần trình bày của nguyên đơn, số tiền bị đơn còn thiếu là tiền chung của hai vợ chồng. Buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền còn thiếu 200.000.000 đồng, không yêu cầu tiền lãi.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 83/2018/DS-ST ngày 19/9/2018, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D đối với bị đơn ông Nguyễn Hữu H về việc tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa.

Buộc ông Nguyễn Hữu H có trách nhiệm thanh toán cho bà Nguyễn Thị Ngọc D số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng).

Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ nộp án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/10/2018 ông Nguyễn Hữu H làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại cấp phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bị đơn là ông Trần Quang T nộp bổ sung chứng cứ là 07 giấy nộp tiền thể hiện phía bị đơn chuyển tiền cho nguyên đơn thông qua ngân hàng để trả nợ với tổng số tiền là 200.700.000 đồng, gồm có:

- Giấy nộp tiền ngày 30/9/2016, ngân hàng VietinBank, người nộp: “Trương Thị Ngọc K”, số tài khoản: 711A41642444, tên tài khoản: “Nguyễn Thị Ngọc D”; số tiền nộp 5.000.000 đồng.

- Giấy nộp tiền ngày 31/10/2016, ngân hàng VietinBank, người nộp: “Nguyen Huu H”, số tài khoản: 711A41642444, tên tài khoản: “Nguyen Thi Ngoc D”; số tiền nộp 150.000.000 đồng.

- Giấy nộp tiền ngày 07/6/2017, ngân hàng VietinBank, người nộp: “Trương Thị Ngọc K”, số tài khoản: 711A41642444, tên người nhận: “Nguyễn Thị Ngọc D”; số tiền nộp 7.700.000 đồng.

- Giấy nộp tiền không đề ngày, tháng 6/2017 (bị đơn trình bày là ngày 03/6/2017, sau đó xác định lại là ngày 16/6/2017), ngân hàng VietinBank, người nộp: “Trương Thị Ngọc K”, số tài khoản: 711A41642444, tên người nhận: “Nguyễn Thị Ngọc D”; số tiền nộp 13.000.000 đồng.

- Giấy nộp tiền ngày 14/6/2017, ngân hàng VietinBank, người nộp: “Đặng Hoàng Nh”, số tài khoản: 711A41642444, tên người nhận: “Nguyễn Thị Ngọc D”; số tiền nộp 3.000.000 đồng.

- Giấy nộp tiền ngày 12/7/2017, ngân hàng VietinBank, người nộp: “Nguyễn Hữu H”, số tài khoản: 711A41642444, tên người nhận: “Nguyễn Thị Ngọc D”; số tiền nộp 15.000.000 đồng.

- Giấy nộp tiền ngày 31/7/2017, ngân hàng VietinBank, người nộp: “Trương Thị Ngọc K”, số tài khoản: 711A41642444, tên người nhận: “Nguyễn Thị Ngọc D”; số tiền nộp 7.000.000 đồng.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn cho rằng do trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm, phía bị đơn bị thất lạc các giấy nộp tiền nêu trên nên không cung cấp được cho Tòa án cấp sơ thẩm. Sau khi xét xử sơ thẩm, phía bị đơn mới tìm thấy các giấy nộp tiền và nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm. Đồng thời, người đại diện hợp pháp cho bị đơn trình bày khi kết thúc hợp đồng mua bán trái dừa, phía bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền 301.000.000 đồng như nguyên đơn trình bày. Tuy nhiên, bị đơn đã trả cho nguyên đơn 100.000.000 đồng theo sự thừa nhận của nguyên đơn. Sau đó, bị đơn có chuyển khoản nộp tiền vào tài khoản của nguyên đơn để trả số tiền còn thiếu là 200.700.000 đồng theo các giấy nộp tiền nêu trên. Số tiền này được trả sau khi nguyên đơn điện thoại cho bị đơn để đòi tiền và nguyên đơn ghi âm các cuộc điện thoại năm 2017. Đồng thời, người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày số tiền mà nguyên đơn gọi điện thoại đòi bị đơn trong các bản ghi âm là 65.000.000 đồng mà bà Đặng Thị Kh đang khởi kiện tại Tòa án nhân dân thị xã DA, tỉnh Bình Dương yêu cầu ông H phải trả nợ và ngày 12/5/2018 bị đơn ông H đã chuyển khoản cho bà Tr để trả nợ cho bà Kh giùm ông H.

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Văn Công H thừa nhận phía bị đơn có chuyển khoản số tiền 200.700.000 đồng cho nguyên đơn theo các giấy nộp tiền do đại diện bị đơn cung cấp cho Tòa án cấp phúc thẩm. Ngoài ra, nguyên đơn còn cung cấp cho Tòa án cấp phúc thẩm bản sao kê tiền ngân hàng của nguyên đơn các năm 2016, 2017, trong đó có nhiều lần bị đơn chuyển tiền cho nguyên đơn tổng cộng hơn 300.000.000 đồng. Trong các giấy nộp tiền mà phía bị đơn cung cấp cho Tòa án chỉ có Giấy nộp tiền ngày 31/10/2016, số tiền nộp 150.000.000 đồng trong đó nguyên đơn được phía bị đơn thanh toán 100.000.000 đồng, những khoản tiền còn lại bị đơn nhờ nguyên đơn trả cho người khác. Do bị đơn có tiền trả nợ cho người khác nhưng không trả cho nguyên đơn nên nguyên đơn mới gọi điện thoại đòi bị đơn trả số tiền 200.000.000 đồng và ghi âm các cuộc điện thoại từ đầu năm 2018 để có cơ sở khởi kiện. Nguyên đơn không thống nhất đối với lời trình bày của bị đơn về việc số tiền mà nguyên đơn gọi điện thoại yêu cầu bị đơn phải trả là số tiền 65.000.000 đồng mà bà Đặng Thị Kh đang khởi kiện tại Tòa án nhân dân thị xã DA, tỉnh Bình Dương. Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn nộp cho Tòa án chứng cứ chứng minh nội dung các cuộc điện thoại hai bên nói chuyện liên quan đến số tiền nguyên đơn khởi kiện bị đơn tại Tòa án nhân dân huyện CT, tỉnh Bến Tre đó là: Thông báo chuyển đơn khởi kiện số 07/TB-TA ngày 16/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện CT, tỉnh Bến Tre, theo thông báo này thì ngày 12/9/2017 nguyên đơn có nộp đơn khởi kiện bị đơn tại Tòa án nhân dân huyện CT, tỉnh Bến Tre để yêu cầu bị đơn trả số tiền mua cơm dừa và nước dừa còn nợ lại là 201.000.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện;

người đại diện hợp pháp của bị đơn ông Trần Quang T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa:

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.

Về nội dung: Căn cứ các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án thì Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn trả cho nguyên đơn 200.000.000 đồng là có cơ sở, kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Hữu H là không có cơ sở. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày, tranh tụng của các đương sự tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị Ngọc K có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà K theo quy định của Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

[2.1] Theo sự thừa nhận của nguyên đơn bà D và bị đơn ông H thì giữa hai bên nguyên đơn và bị đơn có thực hiện hợp đồng mua bán trái dừa từ tháng 02/2015 và hai bên kết thúc hợp đồng vào khoảng tháng 9/2016. Nguyên đơn cho rằng sau khi kết thúc hợp đồng bị đơn còn thiếu nguyên đơn 301.000.000 đồng, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn 100.000.000 đồng, còn lại 201.000.000 đồng, bị đơn hứa trả nhưng chưa trả nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả cho nguyên đơn 200.000.000 đồng, không yêu cầu trả lãi. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bị đơn thừa nhận sau khi kết thúc hợp đồng thì bị đơn còn nợ nguyên đơn 301.000.000 đồng như nguyên đơn trình bày là đúng nhưng sau đó bị đơn đã trả hết tiền còn nợ cho nguyên đơn rồi, đến nay bị đơn không còn nợ nguyên đơn. Từ sự thừa nhận của các bên đương sự, có cơ sở xác định, tại thời điểm kết thúc hợp đồng mua bán trái dừa vào tháng 9/2016, bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền 301.000.000 đồng và bị đơn đã trả cho nguyên đơn 100.000.000 đồng. Đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2.2] Xét kháng cáo của bị đơn:

[2.2.1] Bị đơn kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ dựa vào các đoạn ghi âm cuộc gọi giữa nguyên đơn và bị đơn để buộc bị đơn thanh toán nợ cho nguyên đơn là chưa chính xác, mặt khác tại cấp phúc thẩm người đại diện hợp pháp của bị đơn bổ sung chứng cứ trả tiền cho nguyên đơn là các chứng từ chuyển khoản qua ngân hàng tổng cộng 200.700.000 đồng vào năm 2016, 2017, để chứng minh bị đơn không còn nợ nguyên đơn. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bị đơn thừa nhận giọng nói trong các bản ghi âm mà nguyên đơn cung cấp cho Tòa án là giọng nói của bị đơn, tuy nhiên trong các đoạn ghi âm bị đơn không thừa nhận nợ nguyên đơn bao nhiêu tiền, ngữ điệu trong các đoạn ghi âm trả lời rất vội, nói cho qua chuyện, một số đoạn bức xúc thách nguyên đơn đi kiện, nội dung thì nói về số tiền nợ bà Kha. Mặt khác, khi thì người đại diện hợp pháp của bị đơn cho rằng các cuộc nói chuyện điện thoại mà nguyên đơn ghi âm xảy ra vào năm 2017, trước thời điểm bị đơn thanh toán nợ cho nguyên đơn. Sau các cuộc gọi này, bị đơn đã thanh toán hết tiền cho nguyên đơn rồi. Khi thì người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày các cuộc điện thoại ghi âm được thực hiện sau khi bị đơn trả tiền nợ cho nguyên đơn và nói về số tiền nợ của bà Kh.

[2.2.2] Xem xét các bản ghi âm do nguyên đơn cung cấp, nhận thấy: Trong các bản ghi âm có bản ghi âm tên T Hien-1804280851 ngày 28/4/2018 bị đơn có nói “Ráng qua lễ này tôi đưa tiền cho”, nguyên đơn trả lời “Hồ sơ nộp tòa án huyện đã chuyển lên tòa án Bình Dương...”. Xét các chứng cứ có liên quan và nội dung cuộc gọi điện thoại nêu trên thấy rằng: Ngày 16/4/2018, Tòa án nhân dân huyện CT, tỉnh Bến Tre có ban hành Thông báo số 07/TB-TA về việc chuyển đơn khởi kiện ngày 12/9/2017 của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc D khởi kiện bị đơn ông Nguyễn Hữu H tại Tòa án nhân dân huyện CT, tỉnh Bến Tre để yêu cầu ông H trả số tiền mua cơm dừa và nước dừa còn thiếu là 201.000.000 đồng đến Tòa án nhân dân thị xã DA, tỉnh Bình Dương. Nguyên đơn cho rằng tại thời điểm hai bên nói chuyện qua điện thoại là sau khi nguyên đơn nhận được thông báo của Tòa án nhân dân huyện CT nên có nói cho bị đơn biết thông tin này. Do đó, nội dung trao đổi qua điện thoại giữa bị đơn và nguyên đơn là trao đổi về số tiền bị đơn còn thiếu nguyên đơn 201.000.000 đồng và thời điểm ghi âm cuộc điện thoại là vào 28/4/2018. Như vậy, lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm và các bản ghi âm về các cuộc điện thoại nguyên đơn cung cấp có nội dung nguyên đơn đòi tiền bị đơn được thực hiện vào năm 2018 là có cơ sở. Nội dung này cũng phù hợp với diễn biến sự việc. Sau ngày 28/4/2018 (ngày hai bên nói chuyện qua điện thoại tại bản ghi âm nêu trên), bị đơn không chuyển tiền cho nguyên đơn nên nguyên đơn tiếp tục khởi kiện tại Tòa án nhân dân thị xã DA, tỉnh Bình Dương để yêu cầu bị đơn phải trả tiền cho nguyên đơn. Về lời trình bày của đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng các bản ghi âm là vào năm 2016, 2017 và nội dung nói về khoản nợ của bà Kh là không có cơ sở. Bởi lẽ, trong các bản ghi âm không có nói đến bà Kh, đồng thời tại thời điểm ghi âm thì bà Kh chưa khởi kiện tại Tòa án. Theo các chứng cứ tòa án cấp phúc thẩm thu thập được từ hồ sơ khởi kiện liên quan đến khoản nợ của bà Kh tại TAND thị xã DA và theo sự thừa nhận của nguyên đơn và bị đơn thì thời điểm ông H và bà Kh ký giấy mượn nợ bà Kh 65.000.000 đồng là vào năm 2017 và phát sinh việc khởi kiện của bà Kh liên quan đến số tiền 65.000.000 đồng là vào tháng 11/2018 và vào tháng 02/2019.

[2.2.3] Xét các giấy chuyển tiền do bị đơn cung cấp cho Tòa án cấp phúc thẩm để chứng minh bị đơn có trả tiền cho nguyên đơn thấy rằng: Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của bị đơn khẳng định từ ngày 30/9/2016 đến ngày 31/7/2017 bị đơn có chuyển cho nguyên đơn 200.700.000 đồng. Nguyên đơn cho rằng ngoài các giấy chuyển tiền mà bị đơn cung cấp thì bị đơn còn chuyển các khoản tiền khác, tổng cộng 307.150.000 đồng của năm 2016, 2017 nhưng trong đó chỉ có 100.000.000 đồng tiền bị đơn nợ nguyên đơn, còn số nợ 201.000.000 đồng đến thời điểm năm 2018 bị đơn vẫn chưa trả cho nguyên đơn nên nguyên đơn mới ghi âm các cuộc điện thoại và hai bên phát sinh tranh chấp. Trên thực tế bị đơn không chứng minh được kể từ sau khi có các cuộc điện thoại vào năm 2018 bị đơn có chuyển tiền trả cho nguyên đơn. Xét thấy, các giấy nộp tiền nêu trên vào thời điểm từ tháng 9/2016 đến tháng 7/2017, trước thời điểm nguyên đơn bắt đầu ghi âm các cuộc điện thoại yêu cầu bị đơn phải trả tiền vào năm 2018 và trước khi Tòa án nhân dân huyện CT, tỉnh Bến Tre thông báo chuyển đơn khởi kiện, do đó, các chứng cứ là giấy nộp tiền nêu trên bị đơn dùng để chứng minh bị đơn đã trả hết nợ cho nguyên đơn là không liên quan đến khoản nợ 201.000.000 đồng mà nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả nên không có cơ sở chấp nhận lời trình bày của người đại diện hợp pháp của bị đơn. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn 200.000.000 đồng tiền nợ là có căn cứ theo quy định tại Điều 438 của Bộ luật Dân sự 2005.

[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị đơn, nên giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.

[5] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 92, Điều 148, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; căn cứ Điều 438 của Bộ luật Dân sự 2005; Nghị quyết số 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Hữu H.

2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 83/2018/DS-ST ngày 19/9/2018 của Tòa án nhân dân thị xã DA, tỉnh Bình Dương.

3. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Hữu H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) được trừ vào tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền số 0020226 ngày 01/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã DA, tỉnh Bình Dương.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

550
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 116/2019/DS-PT ngày 24/05/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu:116/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về