Bản án 115/2021/HS-ST ngày 19/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

 BẢN ÁN 115/2021/HS-ST NGÀY 19/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 97/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 138/2021/QĐXXST-HS ngày 05/5/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Tấn T, sinh năm 1982. Tại: Đồng Tháp. Nơi ĐKHKTT: Ấp K, xã MH, huyện HĐ, tỉnh Kiên Giang. Trình độ học vấn: 01/12. Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Bùi Văn T1 và bà Nguyễn Thị H; Vợ: Huỳnh Thị Phương T2, có 01 con sinh năm 2017. Tiền án: Ngày 17/01/2018, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án hình sự sơ thẩm số 13/2018/HS-ST. Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 14/10/2005, Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xử phạt 09 năm tù về tội “Hiếp dâm trẻ em” theo bản án hình sự sơ thẩm số 158/2005/HSST. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 31/12/2020 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Bị hại: Bà Dương Thị B, sinh năm 1974. Địa chỉ: phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 31/12/2020, đi bộ đến tiệm tạp hóa của chị Dương Thị B, sinh năm 1974, cư trú phường T, thành phố M, tỉnh Bình Dương để mua gạo. Khi đến nơi, T gọi nhưng không có ai trả lời và quan sát thấy không có người ở nhà nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của chị B. Lúc này, Tbước vào phòng khách và thấy một giỏ xách để trên ghế nên mở ra xem nhưng không thấy tài sản gì bên trong nên Tđặt giỏ xách xuống, tiếp đó Tnhìn qua ghế bên cạnh thì thấy có một thùng giấy bên trong có tiền nên T lén lút lấy trộm số tiền 500.000 (năm trăm ngàn) đồng của chị B.

Sau khi lấy trộm tiền, T bước ra ngoài rồi giả vờ gọi chị B ra để mua gạo và nước đá hết số tiền 44.000 (bốn mươi bốn ngàn) đồng và lấy tiền vừa trộm được trả cho chị B rồi đi về phòng trọ. Khoảng 05 phút sau, T tiếp tục đến tiệm tạp hóa của chị B mua thuốc lá và nước uống với số tiền 56.000 (năm mươi sáu ngàn) đồng. Lúc này, chị B lấy tiền để trả lại số tiền mua đồ còn dư cho T thì phát hiện bị mất tiền nên chị B xem lại camera an ninh thì phát hiện T đã lấy trộm tiền nên chị B đến Công an phường TBH để trình báo sự việc. Sau đó, Công an phường TBH đã yêu cầu Bùi Tấn T về trụ sở làm việc thì T đã thừa nhận hành vi lấy trộm số tiền 500.000 (năm trăm ngàn) đồng của chị B nhưng đã mua đồ của chị B hết số tiền 100.000 (một trăm ngàn) đồng còn lại số tiền 400.000 (bốn trăm ngàn) đồng. Qua xác minh ban đầu xác định được vào ngày 17/01/2018 Bùi Tấn T bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; ngày 21/01/2020, T chấp hành xong hình phạt tù và hiện chưa được xóa án tích nên Công an phường TBH đã chuyển giao T cùng hồ sơ vụ việc cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một để xử lý theo thẩm quyền.

Cùng ngày 31/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Bùi Tấn T và tạm giữ số vật chứng, gồm: Số tiền 400.000 (bốn trăm ngàn) đồng; 01 (một) cái áo màu xanh cổ tròn tay dài, phía trước có chữ California có hình con gấu, có số 1850; 01 (một) cái quần thể dục dài màu xanh đen, có sọc đỏ hai bên và 01 (một) USB màu xanh chứa dữ liệu ghi hình ảnh Bùi Tấn T lấy trộm tiền của chị Dương Thị B.

Quá trình điều tra, ngày 09/01/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã trả lại số tiền 400.000 (bốn trăm ngàn) đồng cho chị Dương Thị B theo Quyết định xử lý vật chứng số 39 ngày 09/01/2021. Hiện tại, chị B không có yêu cầu Bùi Tấn T bồi thường số tiền còn lại 100.000 (một trăm ngàn) đồng đã chiếm đoạt của chị B.

Đối với 01 (một) cái áo màu xanh cổ tròn tay dài, phía trước có chữ California có hình con gấu, có số 1850 và 01 (một) cái quần thể dục dài màu xanh đen, có sọc đỏ hai bên là tài sản cá nhân của T và không liên quan đến hành vi trộm cắp tài sản của T nên ngày 25/3/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã giao trả cho T theo Quyết định xử lý vật chứng số 63 ngày 25/3/2021.

Cáo trạng số 106/CT-VKS-HS ngày 26/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Bùi Tấn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Bùi Tấn T mức hình phạt từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự và biện pháp tư pháp: Không đề nghị giải quyết.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai của bị hại cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 31/12/2020, Bùi Tấn T có hành vi lén lút chiếm đoạt của bà Dương Thị B số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng); tuy tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng bản thân bị cáo có tiền án về hành vi trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Do đó hành vi bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu, 02 lần bị xử lý hình sự nhưng không tích cực cải tạo, tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Phần lớn tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi, giao trả cho bị hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Căn cứ nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không có yêu cầu gì khác nên không đề cập xử lý.

[8] Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo nộp 100.000đ (một trăm nghìn đồng) thu lợi bất chính sung ngân sách Nhà nước.

[9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Bùi Tấn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2/ Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Bùi Tấn T 08 (tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/12/2020.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

4/ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Buộc bị cáo nộp 100.000đ (một trăm nghìn đồng) thu lợi bất chính sung ngân sách nhà nước.

5/ Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 115/2021/HS-ST ngày 19/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:115/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về