Bản án 115/2020/HS-PT ngày 28/04/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 115/2020/HS-PT NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 49/2020/TLPT-HS ngày 16 tháng 01 năm 2020 đối với các bị cáo Võ Thị P, Nguyễn Thị E, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 123/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Võ Thị P, sinh năm 1968 tại Đồng Tháp. Nơi cư trú: Tổ x, ấp x, xã M, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Mua bán; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn P (đã chết) và bà Nguyễn Thị A; có chồng (đã chết) và 01 con; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 10/3/2018 bị Công an xã M, thành phố C xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc ăn thua bằng tiền, chưa nộp phạt; nhân thân: Ngày 27/5/1998 bị Tòa án nhân dân thị xã C xử phạt 03 tháng tù về tội đánh bạc, đã xóa án tích. Ngày 18/9/2003 bị Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố H xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, đã xóa án tích. Ngày 03/3/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố C xử phạt 01 năm tù về tội đánh bạc, đã xóa án tích; bị bắt, tạm giam: Không; có mặt.

2. Nguyễn Thị E, sinh năm 1990 tại Đồng Tháp. Nơi cư trú: Tổ x, ấp x, xã M, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh L và bà Nguyễn Thị T; có chồng và 02 con; tiền án: Không, tiền sự: Ngày 10/3/2018 bị Công an xã M, thành phố C xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc ăn thua bằng tiền, chưa nộp phạt; bị bắt, tạm giam: Không; có mặt.

Ngoài ra trong vụ án Viện kiểm sát không có kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 11/4/2019, bị cáo Nguyễn Thị E đến bãi đất trống thuộc tổ x, ấp x, xã M, thành phố C để tham gia đánh bạc. Lúc này, bà Nguyễn Thị T đang làm cái bài binh 06 lá và do bà T là mẹ ruột của bị cáo E nên bị cáo E không tham gia. Bà T chuyển cái thì bị cáo E hùn làm cái với chị Nguyễn Bích L1 (chị ruột bị cáo E). Khi tham gia bị cáo E mang theo 605.000 đồng sử dụng đánh bạc, khi hùn vốn bị cáo E lấy ra trước 100.000 đồng, chị L1 lấy ra 300.000 đồng, tất cả E để trên chiếu bạc dùng chân đạp lên để chung chi, nếu hết tiền thì hùn thêm tiền. Quy định mức đặt cược của mỗi ván cao nhất là 100.000 đồng/ván, thấp nhất là 50.000 đồng/ván, bị cáo E và chị L1 làm cái 03 ván. Ở hai ván đầu, có các tụ đặt cược bao gồm Nguyễn Thị C, Nguyễn Thị T1, Đặng Thị N, Lê Thị T2, Huỳnh Thị Kim C1 và Nguyễn Minh C2, bà T và U hùn tụ cái 150.000 đồng, chị L1 và bị cáo E thua 400.000 đồng. Ván thứ ba có các tụ đặt cược gồm C1 100.000 đồng, N 100.000 đồng, C 100.000 đồng, T1 50.000 đồng, T2 100.000 đồng, bà T hùn tụ cái 100.000 đồng, P hùn tụ cái 50.000 đồng, khi đang chia bài thì bị Công an bắt quả tang lúc 13 giờ 45 phút cùng ngày, tang vật thu giữ gồm 02 bộ bài tây (52 lá), tiền Việt Nam 1.300.000 đồng trên chiếu bạc, 01 tấm bạc màu vàng nhạt, 04 ca nhựa.

Ngoài ra còn tạm giữ tài sản cá nhân của những người tham gia đánh bạc và những người có mặt tại sòng bạc như sau: Tạm giữ của bị cáo Nguyễn Thị E số tiền 500.000 đồng trong túi quần dùng để đánh bạc, 01 điện thoại Samsung màu trắng, 01 xe mô tô biển số 66P1-871.xx; bị cáo Võ Thị P số tiền 531.000 đồng trong túi áo khoác dùng để đánh bạc; chị Huỳnh Thị Kim C1 số tiền 1.450.000 đồng, trong đó có 50.000 đồng dùng để đánh bạc; chị Nguyễn Thị T1 số tiền 550.000 đồng trong túi áo khoác dùng để đánh bạc, 01 xe mô tô biển số 66P2-063.xx; chị Đỗ Ngọc N1 số tiền 1.500.000 đồng, 01 xe mô tô biển số 66M4-14xx; chị Nguyễn Bích L1 số tiền 2.000.000 đồng trong túi áo khoác, 01 xe mô tô biển số 66P1-822.xx; bà Nguyễn Thị T số tiền 3.000.000 đồng trong túi quần; bà Đặng Thị N số tiền 1.800.000 đồng trong túi áo khoác, trong đó 800.000 đồng dùng để đánh bạc; bà Nguyễn Thị C số tiền 2.500.000 đồng; chị Nguyễn Thị Hồng N2 số tiền 440.000 đồng; anh Trần Văn H số tiền 100.000 đồng.

Công an xã M đã trả lại các tài sản cho chủ sở hữu do không liên quan đến việc đánh bạc gồm: Trả cho Nguyễn Thị E 01 điện thoại Samsung màu trắng, 01 xe mô tô biển số 66P1-871.xx; Nguyễn Thị T1 01 xe mô tô biển số 66P2-063.xx; Đỗ Ngọc N1 01 xe mô tô biển số 66M4-14xx; Nguyễn Bích L1 01 xe mô tô biển số 66P1-822.xx.

Việc đánh bạc không có ai tổ chức thu tiền xâu, những người tham gia đánh bạc đến đánh bạc vì biết những ngày trước tại nơi này có nhiều người tham gia đánh bạc.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 123/2019/HS-ST ngày 27 tháng 11 năm 2019, được sửa chữa, bổ sung ngày 27/4/2020, Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Đồng Tháp đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Võ Thị P và Nguyễn Thị E phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Võ Thị P 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 và điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị E 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt bổ sung, về xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 09/12/2019, bị cáo Võ Thị P kháng cáo xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo.

Ngày 11/12/2019, bị cáo Nguyễn Thị E kháng cáo xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo P thừa nhận ngày 10/3/2018 bị cáo bị Công an xã M, thành phố C xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc, bị cáo chưa nộp phạt. Đến ngày 11/4/2019, khi bị cáo P đang tham gia đánh bài binh 06 lá ăn thua bằng tiền tại ấp x, xã M, thành phố C, thì bị Công an bắt quả tang và thu giữ 1.300.000 đồng trên chiếu bạc. Bị cáo P nhận tội, nhưng mức án 09 tháng tù mà Tòa án nhân dân thành phố C đã xử phạt bị cáo là nặng, nên bị cáo P không rút kháng cáo, bị cáo mong Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét kháng cáo của bị cáo bởi vì hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn.

Bị cáo E thừa nhận ngày 10/3/2018 bị cáo bị Công an xã M, thành phố C xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc, bị cáo chưa nộp phạt. Đến ngày 11/4/2019, khi bị cáo K đang tham gia đánh bài binh 06 lá ăn thua bằng tiền tại ấp x, xã M, thành phố C thì bị Công an bắt quả tang và thu giữ 1.300.000 đồng trên chiếu bạc. Bị cáo E nhận tội, nhưng mức án 06 tháng tù mà Tòa án nhân dân thành phố C đã xử phạt bị cáo là nặng, nên bị cáo E không rút kháng cáo, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét kháng cáo của bị cáo bởi vì gia đình đang gặp khó khăn, vợ chồng đã ly thân, bị cáo là lao động chính và đang nuôi hai con nhỏ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án: Đơn kháng cáo của các bị cáo Võ Thị P, Nguyễn Thị E nộp trong thời hạn luật định nên hợp lệ. Xét đơn kháng cáo của các bị cáo nhận thấy các bị cáo đều có tiền sự về hành vi đánh bạc, nhung không lo chí thú làm ăn, lại tiếp tục tham gia đánh bạc ăn thua bằng tiền và bị bắt quả tang, thu giữ 1.300.000 đồng trên chiếu bạc nên Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố các bị cáo P, E phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Xét mức án 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo P và mức án 06 tháng tù đối với bị cáo E là phù hợp. Bị cáo P kháng cáo xin giảm hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo, bởi hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhưng không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh; bị cáo P có nhân thân không tốt nên không đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định, nên kháng cáo của bị cáo P không có căn cứ để chấp nhận. Bị cáo E kháng cáo xin giảm hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ bởi gia đình bị cáo khó khăn, vợ chồng đã ly thân, bị cáo là lao động chính nuôi hai con, nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh, nên kháng cáo của bị cáo E không có cơ sở chấp nhận. Căn cứ vào Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Võ Thị P, Nguyễn Thị E và giữ nguyên mức án của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Võ Thị P, Nguyễn Thị E thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của các bị cáo. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản phạm tội quả tang và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở khẳng định Bản án hình sự sơ thẩm số: 123/2019/HS-ST ngày 27/11/2019, được sửa chữa, bổ sung ngày 27/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Đồng Tháp đã xử phạt các bị cáo Võ Thị P, Nguyễn Thị E về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo P, E là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng. Các bị cáo là người thành niên, đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Các bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép là vi phạm pháp luật, là tệ nạn của xã hội, xâm phạm đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội, nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi đánh bài binh 06 lá ăn thua bằng tiền, thể hiện việc các bị cáo xem thường pháp luật. Do đó phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra, nhằm giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt và có tác dụng phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Khi lượng hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là tình tiết người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải cho bị cáo P và đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là tình tiết phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải cho bị cáo E là có căn cứ.

Xét mức án 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo P là phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo P kháng cáo xin giảm hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo, bởi hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn và có nộp đơn xin cứu xét nhưng chỉ được chính quyền địa phương xác nhận nơi cư trú của bị cáo, do vậy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo P. Bị cáo P có nhân thân không tốt, 02 lần bị Tòa án xử phạt tù về tội đánh bạc, 01 lần bị xử phạt tù về tội trộm cắp tài sản và đến ngày 10/3/2018 bị Công an xã M xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, nhưng bị cáo P không hối cải, sửa chữa lỗi lầm mà lại tiếp tục có hành vi đánh bạc và bị bắt quả tang ngày 11/4/2019, nên không đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định.

Xét mức án 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo E là phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo E kháng cáo xin giảm hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ. Về tình tiết gia đình bị cáo đang gặp khó khăn, vợ chồng đã ly thân, bị cáo là lao động chính, đang nuôi hai con nhỏ thì bị cáo có nộp đơn xin cứu xét với những lý do kháng cáo trên, nhưng chỉ được chính quyền địa phương xác nhận nơi cư trú của bị cáo nên không có cơ sở để xem xét; bị cáo E có nhân thân không tốt, ngày 10/3/2018 bị Công an xã M xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, nhưng bị cáo E không hối cải, sửa chữa lỗi lầm mà lại tiếp tục có hành vi đánh bạc và bị bắt quả tang ngày 11/4/2019, nên không đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định. Bị cáo E kháng cáo nhưng không cung cấp tình tiết mới, nhân thân không tốt, do vậy kháng cáo của bị cáo không có căn cứ chấp nhận.

[4] Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Võ Thị P, Nguyễn Thị E và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Do kháng cáo của các bị cáo Võ Thị P, Nguyễn Thị E không được chấp nhận, nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Võ Thị P, Nguyễn Thị E.

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 123/2019/HS-ST ngày 27 tháng 11 năm 2019, được sửa chữa, bổ sung ngày 27/4/2020 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 và điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Võ Thị P phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt: Bị cáo Võ Thị P 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321 và điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị E phạm tội “Đánh bạc”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị E 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Về án phí: Các bị cáo Võ Thị P, Nguyễn Thị E mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 115/2020/HS-PT ngày 28/04/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:115/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về