Bản án 115/2020/HS-PT ngày 24/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 115/2020/HS-PT NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 24 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 82/2020/TLPT-HS ngày 31 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị Yến N do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Yến N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 35/2020/HS-ST ngày 15/06/2020 của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thị Yến N, sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú và chổ ở: ấp B, xã T, thành phố M, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; con ông Nguyễn Thành T1 sinh năm 1977 (đã chết) và bà Lê Ngọc M1, sinh năm 1977; chồng là Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1978 đã chết, bị cáo có một người con sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/11/2019 đến ngày 20/11/2019. Sau đó, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú của Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân thành phố M.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn có bị hại Nguyễn Hùng C, người đại diện theo pháp luật của bị hại Nguyễn Thị Bé C1 không có kháng cáo, bản án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Thị Yến N nghi ngờ Nguyễn Hùng C có tham gia đập phá nhà của bị cáo vào khoảng tháng 7 năm 2019 và đón đường đánh bạn của em bị cáo N. Khoảng 21 giờ ngày 13/7/2019, Nguyễn Hùng C điều khiển xe mô tô biển số 63K9-323.60 chở Trần Ngọc Viễn Đ1 lưu thông trên đường Quốc lộ 50 đến đoạn trước nhà số 10/5 ấp L, xã P, thành phố M. Lúc này, bị cáo N đã có uống rượu, điều khiển xe mô tô biển số 63C1-04444 nhìn thấy bị hại C nên bị cáo N cùng Nguyễn Thành N1 em ruột bị cáo N điều khiển xe mô tô của N1 cùng chạy theo chặn đầu xe của C lại. Bị cáo N bước xuống xe đánh vào mặt C khoảng 07 đến 08 cái, bị cáo N tiếp tục tháo nón bảo hiểm của C đang đội đánh vào đầu, vào mặt C khoảng 07 đến 08 cái. Đến khoảng 21 giờ 40 phút, bị cáo N rút chìa khóa xe của C và dùng chân đẩy xe của C đến đường hẻm tổ 8B, khu phố 2, phường 9, thành phố M. Tại đây, bị cáo N tiếp tục dùng điện thoại di động hiệu Oppo F7 của bị cáo đánh vào đầu, vào mặt, trán của C khoảng 05 đến 06 cái gây thương tích đến khi thấy trán của C chảy máu thì bị cáo N không đánh nữa và cho C đi về. Sáng ngày 14/7/2019, chị Nguyễn Thị Bé C1 là mẹ ruột của C đến Công an phường 9, thành phố M trình báo. Ngày 22/7/2019, Nguyễn Hùng C có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với N.

Nguyễn Thành N1 có đi cùng bị cáo N chặn đầu xe của bị hại C tại đoạn trước nhà số 10/5 ấp L, xã P, thành phố M, nhưng N1 không trực tiếp tham gia và không biết bị cáo N chạy theo chặn xe bị hại C lại để đánh C. Khi thấy bị cáo N đánh C thì N1 có kêu N đừng đánh C nữa và điều khiển xe mô tô đi tìm chồng của bị cáo N là anh Nguyễn Thành Đ để đến can ngăn. Khi bị cáo N kè xe của bị hại C đến đường hẻm tổ 8B, Khu phố 2, Phường 9, thành phố M và tiếp tục dùng tay và điện thoại di động đánh bị hại C thì N1 và Đ vừa chạy đến nên Cơ quan điều tra không khởi tố N1 về tội “Cố ý gây thương tích” với vai trò đồng phạm.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 318/2019/TgT ngày 13/8/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang kết luận:

1. Dấu hiệu C1 qua giám định: Sẹo vết thương giữa trán, kt 0.7x0.3 cm; Vỡ xương C1 mũi.

2. Kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Nguyễn Hùng C là 11 %. Thương tích do vật tầy gây nên.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 35/2020/HS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Yến N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ điểm b và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Yến N 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án được trừ vào thời gian tạm giữ từ ngày 03/11/2019 đến ngày 20/11/2019.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 22/6/2020, bị cáo Nguyễn Thị Yến N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang xác định đơn kháng cáo của bị cáo là hợp lệ nên được xem xét. Trong giai đoạn phúc thẩm, bị cáo không cung cấp chứng cứ giảm nhẹ nào mới nên kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt là không có căn cứ. Sau cùng Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo N thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung của bản án sơ thẩm đã xét xử, đồng thời bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo là xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Vì nghi ngờ bị hại C có hành vi đập phá nhà và đón đường đánh bạn của em bị cáo, nên khoảng 21 giờ ngày 13/7/2019, bị cáo Nguyễn Thị Yến N có hành vi chặn đầu xe rồi dùng tay và nón bảo hiểm đánh vào mặt, vào đầu bị hại C nhiều lần. Tiếp đến khoảng 21 giờ 40 phút, bị cáo N rút chìa khóa xe của C và dùng chân đẩy xe của C đến đường hẻm tổ 8B, khu phố 2, phường 9, thành phố M. Tại đây, bị cáo N tiếp tục dùng điện thoại di động hiệu Oppo F7 của bị cáo đánh vào đầu, vào mặt, trán của bị hại C khoảng 05 đến 06 cái gây thương tích đến khi thấy trán của C chảy máu thì bị cáo không đánh nữa và cho bị hại C đi về. Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 318/2019/TgT ngày 13/8/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Nguyễn Hùng C là 11 %. Thương tích do vật tầy gây nên.

Xét thấy, chỉ vì nghi ngờ bị hại C có tham gia đập phá nhà bị cáo và đón đường đánh bạn của em bị cáo, giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẩn gì, nhưng bị cáo lại liên tục có hành vi đánh bị hại C dẫn đến gây thương tích, nên hành vi của bị cáo được xác định có tính chất côn đồ. Do đó, Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo N về tội “Cố ý gây thương tích ”, theo qui định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét thấy, hành vi nêu trên của bị cáo N đã xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe của bị hại là anh C được pháp luật bảo vệ. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm, chứng tỏ bị cáo có thái độ xem thường pháp luật, xem thường sức khỏe của người khác. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe của người bị hại mà còn gây mất tình hình an ninh, trật tự xã hội tại địa phương.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo N, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm đối với xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Đồng thời cũng đã xem xét đầy đủ về nhân thân, hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân, điều kiện dẫn đến bị cáo phạm tội, cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nên xử phạt bị cáo với mức án 01 (một) năm tù dưới khung hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật. Trong giai đoạn phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự để Hội đồng xét xử xem xét. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

[4] Ý kiến và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử, nghĩ nên chấp nhận.

[5] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Căn cứ khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Yến N.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2020/HS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Yến N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Yến N 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án được trừ vào thời gian tạm giữ từ ngày 03/11/2019 đến ngày 20/11/2019.

2/ Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Yến N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3/ Các phần khác của Quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 115/2020/HS-PT ngày 24/09/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:115/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về