Bản án 115/2020/HSPT ngày 10/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 115/2020/HSPT NGÀY 10/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 110/2020/TLPT-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo Lê Thanh H, do có kháng cáo của bị hại Bùi Quốc C đối với bản án hình sự sơ thẩm số 144/2020/HSST ngày 02/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.

- Bị cáo bị kháng cáo:

LÊ THANH H (tên gọi khác: H bét) - Sinh năm: 1982 Nơi ĐKHKTT: Số 01 SB, phường V, thành phố N, tỉnh K.

Chỗ ở hiện nay: Số 17 SB (số cũ: 01), phường V, thành phố N, tỉnh K. Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Lê Văn B và bà Lê Thị N Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Bản án số 289/2019/HSST ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xử phạt 1 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/5/2020.

Bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên toà.

- Người bị hại có kháng cáo:

Anh Bùi Quốc C - Sinh năm: 1979 Địa chỉ: Số 05 ĐL, phường V, thành phố N, tỉnh K. Có mặt tại phiên tòa.

- Những người tham gia tố tụng khác có liên quan đến kháng cáo:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Cao Xuân H - Sinh năm: 1982 Địa chỉ: 365 Đ, phường V, thành phố N, tỉnh K. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu dùng cho bản thân nên trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 2017 đến tháng 02 năm 2018, Lê Thanh H đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Nha Trang, cụ thể như sau:

Vụ 1: Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 17/12/2017, Lê Thanh H điều khiển xe máy hiệu Honda Ablade (không rõ biển kiểm soát) chở Nguyễn Xuân P (chưa rõ nhân thân lại lịch) đi trộm cắp cây cảnh. Khi đến dãy trọ tại địa chỉ hẻm số 02 đường T, phường V, thành phố N, H nói P đứng ngoài cảnh giới để H đi vào bên trong lấy trộm cây cảnh nhưng không có. Tuy nhiên H phát hiện 01 xe máy Yamaha Exiter, biển kiểm soát 7911-A của anh Giáp Ngọc S dựng trong dãy trọ nên H đã nối lại dây điện của xe, sau đó H nổ máy xe đem chiếc xe này bán cho một nam thanh niên tên H (không rõ nhân thân lai lịch) với giá 8.000.000đ, số tiền có được H sử dụng hết.

Vụ 2: Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 25/12/2017, Lê Thanh H điều khiển xe máy hiệu Honda Ablade (không rõ biển kiểm soát) chở Nguyễn Xuân P (chưa rõ nhân thân lại lịch) đi trộm hoa lan. Khi đi ngang nhà anh Trần Văn P, địa chỉ số 22 đường P, phường V, thành phố N, H phát hiện cửa cổng nhà khóa, trong sân dụng 01 xe máy Honda SH, biển kiểm soát 79H1-B của anh P nên H nói P đứng đợi H. H điều khiển xe đến công trình xây dựng gần đó nhặt 01 cây sắt tròn dài khoảng 60 cm rồi quay lại căn nhà trên, phá khóa cửa cổng, đi vào trong sân dắt xe Honda SH ra ngoài đường. Sau đó H dùng chân đạp phá khóa cổ xe Honda SH rồi nhờ P ngồi lên xe Honda SH để H điều khiển xe Honda Ablade của P đấy xe trộm cắp đi tiêu thụ. Do khóa cổ của xe SH phá chưa hết nên khi chạy được khoảng 200 m, P bị ngã, H nói P ở lại trông xe Honda SH, còn H chạy xe đến nhà Trần Anh M (M tu), địa chỉ 47/9 đường L, phường V, thành phố N nhờ M đấy xe dùm, M đồng ý. Sau đó M ngồi lên xe Honda SH để H chở P bằng xe Honda Ablade đẩy xe trộm cắp được về nhà M. Tại đây H mượn M 01 tuốc nơ vít tháo mặt nạ xe Honda SH trộm cắp, nối dây điện của xe. Lúc này M, H phát hiện trong xe Honda SH có hệ thống định vị nên M biết được đây là xe do H trộm cắp mà có nên yêu cầu H dắt chiếc xe trên ra khỏi nhà M, H nghe vậy, dắt xe Honda SH bỏ lại khu đất trống thuộc tổ 21 T, phường V, thành phố N rồi bỏ đi. Khoảng 06 giờ 00 phút ngày 25/12/2017, ông Nguyễn Hữu T phát hiện xe máy Honda SH trên để tại bãi đất trống gần nhà mình không có ai đến nhận nên ông T đem chiếc xe này đến Công an phường V, thành phố N giao nộp.

Vụ 3: Rạng sáng ngày 18/02/2018, Lê Thanh H cùng với đối tượng tên H1 (không rõ nhân thân lại lịch) chơi game bắn cá. Sau đó H nhờ H1 dùng xe máy chở mình về nhà, khi đi ngang nhà số 05 đường Đ, phường V, thành phố N, H, H1 phát hiện của nhà không đóng, mọi người trong nhà đang ngủ nên H đứng cảnh giới để H1 đi vào bên trong nhà lấy trộm 01 xe máy hiệu Honda Ablade, biển kiểm soát 79N1-C của anh Bùi Quốc C, sau đó H chạy xe của H1 về nhà mình, còn H1 đem xe Honda Ablade trộm được đi cất giấu, chờ thời điểm thích hợp tiêu thụ. Sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản, anh C đến cơ quan Công an trình báo, tài sản bị mất gồm: số tiền 15.000.000đ, 01 xe máy Honda Ablade biển kiểm soát 79N1-C, 01 điện thoại Iphone 5s, 01 điện thoại Iphone 6s, 01 điện thoại Samsung A5, 01 điện thoại Samsung A8, 01 máy tính xách tay hiệu Dell, 01 Ipad II. Đồng thời, anh C nhờ anh Cao Xuân H2 đi tìm giúp và chuộc tài sản về cho mình. Anh H2 nắm thông tin nên điện thoại hỏi H về số tài sản của nhà anh C bị mất, nhờ H tìm giúp. H nghe vậy nói với anh H2 là sẽ chuộc lại xe cho anh C với giá tiền 8.000.000đ, anh C đồng ý và hứa cho H thêm 1.000.000đ tiền công. Sau đó anh H2 đem số tiền 9.000.000đ đến gặp H và lấy lại chiếc xe Honda Ablade, biển kiểm soát 79N1-C giao lại cho anh C.

Ngày 17/5/2018, Lê Thanh H đến Công an thành phố N đầu thú, giao nộp 01 xe máy Honda Vision mang biển kiểm soát 79V1-D và thành khẩn khai nhân thực hiện hành vi như đã nêu trên.

Ngoài ra H còn khai nhận thêm vào năm 2017, Hà cùng đối tượng tên B (không rõ nhân thân lại lịch) đến khu vực B, phường V, thành phố N trộm cắp tài sản, do bị phát hiện nên cả hai bỏ chạy chưa lấy được gì.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 168/HĐĐG ngày 08/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự- Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang kết luận:

- 01 xe máy hiệu Honda Ablade mang biển kiểm soát 79N1-C trị giá 26.220.000 đồng.

- 01 điện thoại Iphone 5s và cục sạc trị giá 538.000 đồng. - 01 điện thoại Iphone 6s màu vàng trị giá 5.283.270 đồng. - 01 điện thoại Samsung A8 màu vàng trị giá 10.990.000 đồng. - 01 điện thoại Sam sung A5 nút màn hình không đủ thông tin định giá.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 192/HĐĐG ngày 24/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự- Ủy ban nhân dân thành phố Nha Trang kết luận:

- Xe máy Yamaha Exciter mang biển kiểm soát 79V1-A có số khung 0610GY190655, số máy G3D4E203556 trị giá 36.855.000 đồng.

- Xe máy Honda SH125 mang biển kiểm soát 79H1-B có số khung 7303GY014185, số máy JF73E0014152 trị giá 63.920.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: 01 xe máy Honda SH125 mang biển kiểm soát 79H1-B (đã trả cho chủ sở hữu); 01 xe máy hiệu Honda Vision có số khung 5810GY352391, số máy JF66E0347284 (đã trả cho chủ sở hữu); 01 điện thoại hiệu Nokia màu đen;

01 biển kiểm soát xe máy 79V1-D.

Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2020/HSST ngày 02/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã quyết định: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Lê Thanh H 2 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo Lê Thanh H đã bồi thường số tiền 9.000.000 đồng cho bị hại Bùi Quốc C.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với Trần Anh M, về trách nhiệm dân sự đối với bị hại Giáp Ngọc S, Trần Văn P, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Giáp Hữu B, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 16/7/2020, bị hại Bùi Quốc C có đơn kháng cáo yêu cầu hủy bản án sơ thẩm số 144/2020/HSST ngày 02/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa để điều tra, xét xử lại vì lý do: ngoài chiếc xe AirBlade, ạnh C còn mất một số tài sản khác theo như đơn trình báo tại Công an phường V nhưng không được xem xét, Tòa án cấp sơ thẩm trong quá trình xét xử đã vi phạm nghiêm trọng khiến quyền, lợi ích hợp pháp của anh bị xâm phạm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại Bùi Quốc C giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị hại và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo Lê Thanh H xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của kháng cáo:

Đơn kháng cáo của bị hại Bùi Quốc C đề ngày 14/07/2020 được nộp trực tiếp cho Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang vào ngày 16/07/2020. Theo quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đơn kháng cáo của bị hại là hợp pháp, do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo nói trên theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về quyền kháng cáo của bị hại Bùi Quốc C và phạm vi xét xử phúc Anh Bùi Quốc C là người bị hại trong vụ trộm cắp tài sản xảy ra ngày 18/02/2018 tại nhà số 05 Đ, phường V, thành phố N nên có quyền kháng cáo các quyết định của bản án sơ thẩm liên quan đến vụ trộm cắp tài sản nói trên. Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án sơ thẩm bị bị hại kháng cáo theo phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 345 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo Lê Thanh H và nội dung kháng cáo của bị hại Bùi Quốc C:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thanh H thừa nhận toàn bộ hành vi bị cáo đã thực hiện như nội dung bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của anh Giáp Ngọc S, anh Trần Văn P, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo xác định vào ngày 18/02/2018, bị cáo cùng đối tượng tên H1 (không rõ nhân thân, lai lịch) đã cùng nhau thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt một xe máy hiệu AirBlade biển kiểm soát 79N1-C của anh Bùi Quốc C để trong sân nhà số 05 Đ, phường V, N. Ngoài ra bị cáo còn thực hiện hai vụ trộm cắp tài sản khác tại hẻm số 02 đường T, phường V, thành phố N và số 22 đường P, phường V, thành phố N; tổng giá trị tài sản bị cáo đã trộm cắp là 126.995.000 đồng.

Trong vụ trộm cắp tài sản tại nhà số 05 Đ, người bị hại Bùi Quốc C kháng cáo cho rằng ngoài xe máy biển kiểm soát 79N1-C, anh còn bị mất trộm một số tài sản để trong nhà gồm một điện thoại di động Iphone 5S màu trắng, một điện thoại di động A5 màu đen, một điện thoại di động Iphone 6S màu vàng, một điện thoại di động Samsung A8 màu vàng, một máy tính xách tay màu đen hiệu Dell, một cục sạc và số tiền 15 triệu đồng. Tuy nhiên, bị cáo Lê Thanh H khai rằng khi bị cáo vào sân nhà số 05 Đ để trộm cắp chiếc xe máy thì cổng và cửa nhà anh C vẫn đang mở, bị cáo H không thừa nhận việc bị cáo có chiếm đoạt số tài sản nào khác của anh C ngoài chiếc xe máy hiệu AirBlade biển kiểm soát 79N1-C, đồng thời cũng không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh Lê Thanh H là người đã trộm cắp các tài sản khác của anh C ngoài chiếc xe máy nói trên. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang tiếp tục điều tra, làm rõ vụ trộm cắp tài sản tại nhà số 05 Đ, phường V, thành phố N ngày 18/02/2018 (đối với các tài sản khác mà anh C đã khai báo), do đó không có căn cứ để xác định Tòa án cấp sơ thẩm đã bỏ lọt tội phạm như kháng cáo của người bị hại.

Từ những phân tích nói trên, có đủ cơ sở để xác định rằng, bản án sơ thẩm số 144/2020/HS-ST ngày 02/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xét xử bị cáo Lê Thanh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo mức hình phạt 2 năm 6 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; xét thấy không có căn cứ để xác định bị cáo là người trộm cắp các tài sản khác của bị hại Bùi Quốc C nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị hại mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Bị hại Bùi Quốc C không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm. [5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời gian kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị hại Bùi Quốc C, giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với bị cáo Lê Thanh H.

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo LÊ THANH H 2 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc bị cáo Lê Thanh H đã bồi thường số tiền 9.000.000 đồng cho bị hại Bùi Quốc C.

Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang điều tra làm rõ vụ trộm cắp tài sản tại nhà số 05 Đ, phường V, thành phố N xảy ra vào ngày 18/02/2020.

2/ Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Bị hại Bùi Quốc C không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 115/2020/HSPT ngày 10/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:115/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về