Bản án 115/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ PHONG, TỈNH NGHỆ AN

 BẢN ÁN 115/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 112/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Lô Văn T; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1980, tại huyện Q, tỉnh Nghệ Ann. Nơi cư trú: Bản B, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Nguyên trồng trọt; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lô Văn L (Đã chết); con bà: Lô Thị L; vợ: Lô Thị O (Đã ly hôn) và 01 người con; tiền án: Ngày 28/6/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa chấp hành xong phần dân sự; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2019. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lô Văn T: Bà Tạ Thị A, Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý, chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/9/2019 Lô Văn T đi lên bản Mường L, xã T, huyện Q mua một gói Heroin với một người không quen biết, để sử dụng. Mua được ma túy bị cáo đi về đến bản Piêng Cắm, xã C, huyện Q thì bị bắt quả tang. Thu 01 gói chất bột màu trắng và 01 chiếc xe máy.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q qua xác định trọng lượng gói chất bột màu trắng thu của Lô Văn T có khối lượng 1,3 gam.

Bản kết luận giám định số 1300/KL-PC09(MT) ngày 27/9/2019 của phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lô Văn T gửi tới giám định là Heroin. Chất bột màu trắng thu giữ của Lô Văn T gửi tới giám định có khối lượng 1,3 (Một phẩy ba) gam.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lô Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Cụ thể: Vào lúc 12 giờ, ngày 25/9/2019 tại bản Piêng Cắm, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An, Lô Văn T đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang, thu 1,3 gam Heroin. Mục đích bị cáo cất giấu ma túy là để sử dụng.

Cáo trạng số 119/CT-VKS- HS ngày 10/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Lô Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đối với người bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, do không xác minh được họ tên và địa chỉ, nên không có cơ sở để điều tra xử lý.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã kết luận và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lô Văn T từ 24 đến 30 tháng tù.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại và miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Người bào chữa không tranh luận về tội danh và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn tiền án phí cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Mặc dù không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép, nhưng vào lúc 12 giờ, ngày 25/9/2019 tại bản Piêng Cắm, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An, bị cáo Lô Văn T đang cất giấu trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang. Thu của bị cáo 1,3 gam Heroin. Bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết nhân thân, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, mà còn làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, nòi giống của con người, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng; bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời giA để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên sau khi phạm tội bị cáo khai báo thành khẩn; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q đề nghị xử phạt bị cáo Lô Văn T từ 24 đến 30 tháng tù; người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa là hợp lý.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có việc làm ổn định, thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản đáng giá; thuộc hộ nghèo. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với 1,3 gam Heroin cơ quan điều tra lấy đi giám định chất ma túy 0,2 gam; còn lại 1,1 gam. Đây là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy; đối với chiếc xe máy, cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên B: Lô Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Phạt Lô Văn T 24 (Hai mươi Bn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/9/2019.

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ 1,1 (Một phẩy một) gam Heroin thu giữ của bị cáo Lô Văn T.

Chi tiết vật chứng được ghi cụ thể trong biên bản giao nhận ngày 13/11/2019 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q với Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lô Văn T.

Bị cáo Lô Văn T có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 115/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:115/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về