Bản án 115/2019/HNGĐ-ST ngày 21/06/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 115/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 21/6/2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 24/2019/TLST-HNGĐ, ngày 14 tháng 02 năm 2019 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 13 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2019/QĐST- HNGĐ, ngày 30 tháng 5 năm 2009 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Minh Ch, sinh năm 1976;

Địa chỉ: Thôn 3, xã T, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Mai Thanh D, sinh năm 1974;

Địa chỉ: Thôn Đồng Vầu, xã Bình Xa, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang (Vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và bản tự khai nguyên đơn bà Phạm Thị Minh Ch trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Mai Thanh D kết hôn với nhau từ năm 1995, có đăng ký kết hôn ngày 02/12/1995 tại UBND xã Bình Xa, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán địa phương. Cuộc sống chung vợ chồng ban đầu hạnh phúc, nhưng đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ đó đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không quan tâm gì đến nhau. Nay bà xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông D, đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Mai Thanh D.

- Về con chung: Bà và ông D có 02 con chung là cháu Mai Thị H, sinh ngày 02/9/1996 và cháu Mai Văn H1, sinh ngày 20/6/1998, hiện nay đã trưởng thành (trên 18 tuổi) sức khỏe bình thường, đủ khả năng tự lập, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Bà Ch xác định vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết.

- Về vay nợ chung: Bà Ch xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

* Bị đơn ông Mai Thanh D:

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án tiến hành tống đạt trực tiếp Thông báo thụ lý vụ án cho ông D, ông D trực tiếp nhận Thông báo thụ lý vụ án, biết việc bà Ch khởi kiện xin ly hôn và Tòa án đã thụ lý vụ án, nhưng ông D không nộp cho Tòa án văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo như nội dung ghi trong Thông báo thụ lý vụ án. Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông D đều vắng mặt không có lý do chính đáng, do vậy thuộc trường hợp cố tình trốn tránh.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, còn bị đơn chưa chấp hành việc triệu tập của Tòa án.

- Về nội dung: Bà Ch và ông D kết hôn với nhau năm 1995 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Xa ngày 02/12/1995, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Hiện bà Ch và ông D sống ly thân, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Ch và ông D đã trầm trọng. Căn cứ vào các quy định của Luật hôn nhân và gia đình; Bộ luật tố tụng dân sự đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Ch và xử cho bà Phạm Thị Minh Ch được ly hôn với ông Mai Thanh D. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồngxét xử buộc bà Ch phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Phạm Thị Minh Ch có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn ông Mai Thanh D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Minh Ch và ông Mai Thanh D kết hôn với nhau từ năm 1995, có đăng ký kết hôn ngày 02/12/1995 tại UBND xã Bình Xa, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán của địa phương. Như vậy hôn nhân giữa bà Phạm Thị Minh Ch và ông Mai Thanh D là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án bà Phạm Thị Minh Ch xác định cuộc sống chung vợ chồng ban đầu hạnh phúc, nhưng đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng không thể hòa hợp được, nên vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không quan tâm gì đến nhau.

Qua xác minh tại địa phương thể hiện bà Phạm Thị Minh Ch và ông Mai Thanh D kết hôn với nhau từ năm 1995, sau khi kết hôn bà Ch và ông D sinh sống tại xã Tân Thành, huyện Hàm Yên, sau khi mâu thuẫn vợ chồng xảy ra thì ông D về sinh sống ở nhà bố, mẹ đẻ của ông D tại thôn Đồng Vầu, xã Bình Xa, huyện Hàm Yên, trường hợp bà Ch và ông D về đoàn tụ gia đình cũng không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc. Hội đồng xét xử thấy rằng giữa bà Ch và ông D đã có thời gian sống ly thân đã lâu, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không quan tâm gì đến nhau, nên không thể tồn tại được một gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh phúc và tiến bộ được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Ch và cho bà Ch được ly hôn với ông D là phù hợp với quy định tại Điều 56 - Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Bà Ch và ông D có 02 con chung là cháu Mai Thị H, sinh ngày 02/9/1996 và cháu Mai Văn H1, sinh ngày 20/6/1998. Theo bà Ch xác định hiện nay con chung của bà Ch và ông D đã trưởng thành (trên 18 tuổi) sức khỏe bình thường, đủ khả năng tự lập, bà Ch không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Bà xác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vay nợ chung: Bà xác định xác định không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bà Phạm Thị Minh Ch phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 28; 147; 207; 227; 228; 235; 238; 266; 267; 271; 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

* Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Phạm Thị Minh Ch được ly hôn với ông Mai Thanh D.

- Về án phí: Bà Phạm Thị Minh Ch phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0002013, ngày 14/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên, bà Ch đã nộp đủ án phí.

Ông Mai Thanh D không phải chịu án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được hay niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 115/2019/HNGĐ-ST ngày 21/06/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:115/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về