Bản án 115/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH A

BẢN ÁN 115/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 17 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 247/2019/TLST-HNGĐ ngày 10/6/2019 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 217/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/9/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 155/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26/9/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1996 (có mặt). Địa chỉ: khóm X, thị trấn T, huyện T, tỉnh A.

2. Bị đơn: ông Nguyễn Tuấn E, sinh năm 1994 (vắng mặt). Địa chỉ: ấp T, thị trấn O, huyện T, tỉnh A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 22/7/2019 và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày: do mai mối nên bà N và ông Nguyễn Tuấn E tiến đến hôn nhân vào năm 2013, có tổ chức lễ cưới nhưng đến năm 2016 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) thị trấn T, huyện T, tỉnh A. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc và sinh được 01 con chung tên Nguyễn Tuấn H, sinh ngày 04/11/2016. Sau khi sinh con thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông Tuấn E không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu, không quan tâm chăm sóc vợ, con. Từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã, nhiều lần xô xát lẫn nhau nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Mặc dù được gia đình hai bên hòa giải nhưng vợ chồng vẫn không đoàn tụ được. Đến tháng 10 năm 2018, ông Tuấn E về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay và cũng không liên lạc với bà N. Nay mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể duy trì cuộc sống hôn nhân nên bà N yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: bà N yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Tuấn E.

- Về quan hệ con chung: cháu Nguyễn Tuấn H đang sống chung với bà N.

Bà N yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con, không yêu cầu ông Tuấn E cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: không có.

Bị đơn ông Nguyễn Tuấn E đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình - ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông Nguyễn Tuấn E đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp T, thị trấn O, huyện T, tỉnh A, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông Nguyễn Tuấn E tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, ông Tuấn E vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất và lần thứ hai, không lý do. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông Tuấn E.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về hôn nhân: bà Nguyễn Thị H với ông Nguyễn Tuấn E chung sống với nhau từ năm 2013. Tuy nhiên, đến năm 2016 bà N và ông Tuấn E mới làm thủ tục đăng ký kết hôn và được UBND thị trấn T, huyện T, tỉnh A cấp Giấy chứng nhận kết hôn số: 85, ngày 11/10/2016. Vì vậy, quan hệ hôn nhân của bà N và ông Tuấn E phù hợp với quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật công nhận là vợ chồng.

[3.2] Xét, yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị H thấy rằng, bà N với ông Tuấn E chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu. Đến năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn, bà N cho rằng ông Tuấn E không lo kinh tế gia đình, không quan tâm đến vợ và con, đời sống hôn nhân thường xuyên mâu thuẫn. Từ đó vợ chồng không còn tình cảm và đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2018 cho đến nay.

[3.3] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Tuấn E, tạo điều kiện cho bà N và ông Tuấn E hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy ông Tuấn E trực tiếp ký nhận Thông báo thụ lý vụ án nhưng không nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn. Tòa án nhiều lần triệu tập ông Tuấn E tham gia các phiên hòa giải nhưng ông đều vắng mặt, không lý do. Xét thấy, bà N và ông Tuấn E đã sống ly thân từ tháng 10 năm 2018 cho đến nay, tình trạng hôn nhân giữa bà N và ông Tuấn E mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị H.

[4] Về quan hệ con chung: bà N và ông Tuấn E có 01 con chung tên Nguyễn Tuấn H, sinh ngày 04/11/2016. Bà N yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu ông Tuấn E cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu H đang sống với mẹ và dưới 36 tháng tuổi nên rất cần sự chăm sóc chu đáo của người mẹ. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của cháu H, căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của bà N; giao cháu H cho bà Ntiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Bà N không yêu cầu ông Tuấn E cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Bà N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Tuấn E trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: bà N xác định không có.

[6] Về án phí: do bà Nguyễn Thị H yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 9, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Tuấn E.

Giấy chứng nhận kết hôn số 85, ngày 11/10/2016 của Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh A không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về quan hệ con chung: bà Nguyễn Thị H với ông Nguyễn Tuấn E có 01 con chung tên Nguyễn Tuấn H, sinh ngày 04/11/2016.

Giao cháu Nguyễn Tuấn H cho bà Nguyễn Thị H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục (cháu H đang sống chung với bà N). Bà Nguyễn Thị H không yêu cầu ông Nguyễn Tuấn E cấp dưỡng nuôi con.

Bà Nguyễn Thị H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Tuấn E trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, của cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

1.3. Về quan hệ tài sản: không có.

1.4. Về nợ chung: ghi nhận bà Nxác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Tuấn E vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000244 ngày 10/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh A.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 115/2019/HNGĐ-ST ngày 17/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

Số hiệu:115/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về