TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 114/2019/HSST NGÀY 17/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 17 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 113/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:
Trần Quốc T, sinh năm 1969, tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu S, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Bá V và bà Lê Thị C; bị cáo có vợ là Hoàng Thị T (Đã ly hôn) và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 22/3/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 28 tháng 08 ngày về tội Đánh bạc (Đã được xóa án tích). Bị tạm giữ, giam từ ngày 16/3/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ 15 phút ngày 16/3/2019, Tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm việc tại tiểu khu S, thị trấn M kiểm tra hành chính về ma túy tại nhà Trần Quốc T phát hiện T đang ngồi trên giường, tại vị trí bên cạnh chỗ T ngồi có 01 túi vải màu đen có dây rút, bên trong đựng 01 túi nilon màu xanh bên trong đựng 05 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY, nghi là Methamphetamine, T khai nhận đó là ma túy tổng hợp của T mua về để sử dụng cho việc nghiện hút của bản thân.
Về nguồn gốc ma túy T khai mua của của một người đàn ông dân tộc Mông, không quen biết ở bản C, xã Đ, huyện M.
Căn cứ vào hành vi vi phạm của Trần Quốc T, Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật và dẫn giải Trần Quốc T về trụ sở Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ngày 16/03/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định số lượng, khối lượng số các viên nén màu hồng nghi là Methamphetamine thu giữ của Trần Quốc T được 05 viên có tổng khối lượng là 0,46 gam. Lấy 02 viên = 0,19 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu “T”. Trưng cầu giám định xác định mẫu ký hiệu “T” có phải ma túy không, loại ma túy gì, khối lượng của mẫu giám định là bao nhiêu?.
Kết luận giám định số 620 ngày 19/03/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; Loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,19 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,46 gam; Loại Methamphetamine”.
Bản cáo trạng số: 108/CT-VKSMC ngày 03 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị cáo Trần Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên quan điểm truy tố Trần Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Tuyên bố Trần Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trần Quốc T từ 15 tháng đến 18 tháng tù;
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Trần Quốc T, bắt ngày 16/3/2019 bên trong đựng 03 viên ném màu hồng = 0,27 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Trần Quốc T ngày 16/3/2019, 01 chiếc túi vải có dây rút màu đen.
3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo Trần Quốc T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Tại phiên toà, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.
Xét lời khai nhận của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong vật chứng xác định số lượng, khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định và lời khai của những người chứng kiến sự việc.
Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 16/3/2019 Trần Quốc T đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 05 viên Methamphetamine có tổng khối lượng là 0,46 gam, với mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định mức phạt hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng tệ nạn xã hội.
Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu là đối tượng nghiện hút chất ma túy, bị cáo đã có 01 tiền án ngày 22/3/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 28 tháng 08 ngày về tội Đánh bạc (Đã được xóa án tích). Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma túy đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có bố đẻ, mẹ đẻ là người có công với cách mạng. Đây là là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo không có tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật hình sự.
[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo không có tài sản gì có giá trị nên không phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.
[4] Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Trần Quốc T, bắt ngày 16/3/2019 bên trong đựng 03 viên ném màu hồng = 0,27 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Trần Quốc T ngày 16/3/2019, 01 chiếc túi vải có dây rút màu đen là vật Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.
[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Pháp luật.
[7] Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn trên 45 ngày, Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam đối với bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Quốc T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Quốc T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 16/3/2019.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Trần Quốc T, bắt ngày 16/3/2019 bên trong đựng 03 viên ném màu hồng = 0,27 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu, 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Trần Quốc T ngày 16/3/2019, 01 chiếc túi vải có dây rút màu đen.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Quốc T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 114/2019/HSST ngày 17/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 114/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/06/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về