Bản án 114/2019/DS-PT ngày 14/11/2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 114/2019/DS-PT NGÀY 14/11/2019 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM HẠI

Ngày 14 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 105/2019/TLPT-DS ngày 18 tháng 9 năm 2019 về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 10/2019/DSST ngày 11 tháng 6 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 135/2019/QĐ-PT ngày 23/9/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 102/2019/QĐ-PT ngày 17/10/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Quốc T, sinh năm 1976; Địa chỉ: Y1 khu phố P, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (có mặt).

- Bị đơn: Ông Bùi Nguyên K, sinh năm 1989; Địa chỉ: Số 158 Đ, khu phố T, phường M, thị xã H, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

- Người kháng cáo: Ông Huỳnh Quốc T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Huỳnh Quốc T trình bày:

Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 23/4/2017, khi Ông điều khiển xe mô tô biển số 72K1 – 21.338 đi trong làn đường dành cho me mô tô từ thành phố Hồ Chí Minh về Bà Rịa. Khi đi đến khu vực số nhà 158 đường Đ, khu phố T, phường M, thị xã H thì ông Bùi Nguyên K dừng xe ô tô biển số 72A-03.433 trên làn xe dành cho xe mô tô rồi bất ngờ mở của xe phía bên tay trái đã chạm vào tay phải của Ông làm Ông và xe máy ngã ra đường bị thương.

Nay, Ông yêu cầu ông K phải bồi thường các khỏan sau: Chi phí điều trị theo hóa đơn: 25.353.000 đồng.

Chi phí sửa xe: 4.830.000 đồng.

Tiền xe đi lại (điều trị và đi kiện): 34.000.000 đồng.

Thu nhập thực tế bị mất: 24 tháng x 3.750.000đ = 90.000.000 đồng. Tiền tổn thất tinh thần: 60.000.000 đồng.

Tiền thu nhập của người chăm sóc: 3.000.000đ x 24 tháng = 72.000.000 đồng.

Tổng cộng: 286.183.000 đồng.

Bị đơn, ông Bùi Nguyên K trình bày:

Ông xác nhận có va chạm tai nạn giao thông như ông Huỳnh Quốc T trình bày. Tuy nhiên Ông chỉ đồng ý bồi thường cho ông T những khoản phù hợp pháp luật, cụ thể Ông đồng ý các khoản ông T nêu ra nhưng riêng khoản thu nhập thực tế của người chăm sóc Ông đồng ý bồi thường 3 tháng 10 ngày là 10.000.000 đồng. Tổng cộng là 224.183.000 đồng.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 10/2019/DSST ngày 11/6/2019 Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ đã áp dụng các Điều 26, 35, 39, 271, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Khoản 1 Điều 585, Khoản 1 Điều 586, Điều 588, 590 Bộ luật dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội; điểm b Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn về việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại.

Ông Bùi Nguyên K có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho ông Huỳnh Quốc T tổng số tiền là 224.183.000 đồng.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên án phí, trách nhiệm do chậm thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 21 tháng 6 năm 2019, ông Huỳnh Quốc T làm đơn kháng cáo yêu cầu Tòa phúc thẩm sửa án sơ thẩm, buộc bị đơn bồi thường thiệt hại 300.000.000 đồng cho ông.

Tại phiên tòa phúc thẩm ông Huỳnh Quốc T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và yêu cầu khởi kiện; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu:

Về việc tuân theo pháp luật của các Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử và các đương sự là đúng theo quy định của pháp luật.

Về kháng cáo: Căn cứ vào Báo cáo kết quả điều tra số 133 ngày 23/10/2017 của Công an huyện Tân Thành và Thông báo số 1151/TB-CQCSĐT-ĐTTH ngày 18/9/2017 của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tân Thành thì thấy yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Quốc T đòi bồi thường thiệt hại là có căn cứ.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc ông K phải bồi thường các chi phí bao gồm: Thu nhập ông T bị mất trong 02 năm là 90.000.000 đồng, thu nhập của người chăm sóc bị mất là 72.000.000 đồng, bồi thường tổn thất về tinh thần là 60.000.000 đồng; chi phí điều trị thương tích theo hóa đơn là 25.353.000 đồng; chi phí sửa chữa xe mô tô là 4.830.000 đồng,tiền thuê xe đi lại điều trị thương tích và đến làm việc tại cơ quan tiến hành tố tụng là 34.000.000 đồng thì toàn bộ các khoản này tại Tòa án cấp sơ thẩm ông K đều đồng ý và không kháng cáo nên yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là không có căn cứ.

Đối với chi phí bồi thường cho người chăm sóc ông T trong thời gian 02 năm là 72.000.000 đồng thì thấy: Ông T không cung cấp được bất cứ giấy tờ gì chứng minh cho thu nhập của vợ ông T; Theo nội dung giấy ra viện do bệnh viện Chấn thương chỉnh hình thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 20/5/2017 có nội dung: ông Huỳnh Anh T nhập viện ngày 17/5/2017 ra viện vào ngày 18/5/2017 được đề nghị nghỉ ốm 08 ngày từ 21-28/5/2017. Như vậy, từ thời điểm xảy ra tai nạn 23/4/2017 đến hết ngày theo đề nghị của bác sĩ là 28/5/2018 là 01 tháng 05 ngày. Vì vậy, ông K đồng ý bồi thường cho phần thu nhập bị mất của người chăm sóc ông T trong thời gian 03 tháng 10 ngày theo mức thu nhập ông T đề nghị 3.000.000 đồng/tháng với số tiền 10.000.000 đồng là hợp lý nên yêu cầu kháng cáo của ông T là không có căn cứ.

Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/QĐ-BPKCTT ngày 23/5/2019 buộc ông K thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường cho ông T; tại phiên tòa phúc thẩm các bên đương sự thừa nhận phía bị đơn chưa thực hiện nội dung của quyết định này, đồng thời ông T có yêu cầu hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này nên cần thiết hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02 ngày 23/5/2019 của Tòa án nhân dân thị xã phú Mỹ, sửa án sơ thẩm về nội dung này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đơn kháng cáo của ông Huỳnh Quốc T nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự nên hợp lệ; Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xem xét yêu cầu kháng cáo nêu trên như sau:

Vụ tai nạn là có thật, tỷ lệ thương tật của ông T là 33%, lỗi là của bị đơn. Do đó cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu bồi thường của ông T là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

Ông Huỳnh Quốc T yêu cầu bồi thường 300.000.000 đồng từ ngày bị tai nạn đến nay. Qua xem xét cấp sơ thẩm đã chấp nhận 224.183.000 đồng bao gồm: Chi phí điều trị theo hóa đơn 25.353.000 đồng; Chi phí sửa xe 4.830.000 đồng; Tiền xe đi lại 34.000.000 đồng; Thu nhập thực tế bị mất 90.000.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần:

60.000.000 đồng, tổng cộng là 214.183.000 đồng, ông K đồng ý bồi thường. Chỉ có khoản tiền thu nhập bị mất của người chăm sóc thì ông T yêu cầu 24 tháng x 3 triệu đồng/tháng nhưng ông K chỉ đồng ý 3 tháng 10 ngày là 10.000.000 đồng trong khi đó ông T nằm viện chỉ có 1 tháng 5 ngày và được nghỉ ngơi 8 ngày sau khi ra viện. Cấp sơ thẩm buộc ông K bồi thường 10.000.000 đồng là có lợi cho ông T và ông K tự nguyện.

Tại phiên tòa hôm nay ông T không cung cấp được chứng cứ mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ngoài ra ông T còn trình bày chưa tính phần điều trị sau này khi tháo con ốc vít ở chỗ chân bị gãy. Chi phí này chưa phát sinh nên Tòa không giải quyết. Sau này khi phát sinh chi phí điều trị thương tích do tai nạn thì ông T có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường.

[3] Do ông Huỳnh Quốc T có yêu cầu nên tòa sơ thẩm đã ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2019/QĐ-BPKCTT ngày 23/05/2019 buộc ông Bùi Nguyên K thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là 100.000.000 đồng. Quyết định này nhằm giúp ông T chi phí một phần tiền chữa thương tích trước khi tòa xét xử và đến nay ông K chưa thực hiện. Tại phiên tòa phúc thẩm, Ông T đề nghị hủy quyết định này do đó cần sửa án sơ thẩm về phần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

[4] Về án phí phúc thẩm ông Huỳnh Quốc T không phải chịu.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Huỳnh Quốc T. Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 10/2019/DSST ngày 11/6/2019 Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ.

Áp dụng các Điều 26, 35, 39, 271, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Khoản 1 Điều 585, Khoản 1 Điều 586, Điều 588, 590 Bộ luật Dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội; điểm b Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Huỳnh Quốc T đối với ông Bùi Nguyên K về việc “Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại”.

Ông Bùi Nguyên K có nghĩa vụ bồi thường cho ông Huỳnh Quốc T tổng số tiền là 224.183.000 (hai trăm hai bốn triệu một trăm tám ba ngàn) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc có đơn yêu cầu thi hành án, nếu chưa thi hành án thì người phải thi hành án còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm trả theo lãi suất quy định tại các Điều 357, 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

2. Hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 02/2019/QĐ- BPKCTT ngày 23/05/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu buộc ông Bùi Nguyên K thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là 100.000.000 (một trăm triệu) đồng.

3. Án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Bùi Nguyên K phải nộp 11.209.000 (mười một triệu hai trăm lẻ chín ngàn) đồng.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Huỳnh Quốc T không phải chịu.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

393
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

  Bản án 114/2019/DS-PT ngày 14/11/2019 về tranh chấp bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại

Số hiệu:114/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về