TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 114/2018/HS-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 11 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 101/2018/TLST-HS ngày 25/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2018/QĐXXST-HS ngày 05/11/2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lỳ Bá C - Tên gọi khác: không; sinh ngày 12/5/2000 tại xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: bản HĐ, xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ học vấn: lớp 8/12; dân tộc: Mông; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lỳ Chá X và bà Lầu Y Đ; có vợ là Xồng Y R, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/7/2018 đến nay, hiện đang tại ngoại. Có mặt.
- Bị hại: Vừ Y K, sinh ngày 01/5/2000; Trú tại: bản PX, xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An, vắng mặt, ủy quyền cho bố đẻ là ông Vừ Xái Đ (sinh năm 1980, trú tại: bản PX, xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An) tham gia phiên tòa. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Gia C, sinh năm 1982; Trú tại: bản T, xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 19 giờ ngày 30/5/2018, Lỳ Bá C đến chơi tại phòng trọ của anh Vừ Bá T tại Khối B, thị trấn MX, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Ngồi chơi được một lúc thì Lỳ Bá C quan sát thấy phòng trọ bên cạnh của chị Vừ Y K có một chiếc điện thoại để trên tủ gỗ nên đã nảy sinh ý định lấy trộm. Sau đó Công hỏi Trung “có biết điện thoại để ở đó của ai không?”, Trung trả lời “không biết”, Lỳ Bá C hỏi tiếp “ở đây có camera không?”, Trung trả lời “không có”. Một lúc sau Lỳ Bá C ra về, khi đi qua phòng trọ có chiếc điện thoại, quan sát xung quanh không có ai nên Lỳ Bá C lẻn vào phòng lấy chiếc điện thoại bỏ vào túi quần rồi đi về nhà.
Đến ngày 02/6/2018, Lỳ Bá C đi chơi thì gặp Lỳ Tồng C (trú cùng bản), Lỳ Bá C đã nói với Lỳ Tồng C mới nhặt được một chiếc điện thoại rồi nhờ Lỳ Tồng C đi bán hộ và hứa sẽ cho Lỳ Tồng C 20.000đ (hai mươi nghìn đồng) thì Lỳ Tồng C đồng ý. Sau đó Lỳ Tồng C đem chiếc điện thoại đến cửa hàng diện thoại của anh Nguyễn Gia C tại bản T, xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An bán được số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng). Bán điện thoại xong, Lỳ Tồng C đưa toàn bộ số tiền 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) cho Lỳ Bá C, số tiền này Lỳ Bá C đã tiêu xài cá nhân hết.
Tại kết luận định giá tài sản số 02 ngày 22/6/2018, Hội đồng định giá tài sản huyện Kỳ Sơn đã kết luận: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO NEO 7, màu đen, IMEI 1: 863332033446279; IMEI 2: 863442033446261 máy cũ đã qua sử dụng có trị giá 2.000.000đ (hai triệu đồng).
Cáo trạng số 109/CT-VKS-KS ngày 22/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn đã truy tố Lỳ Bá C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa Lỳ Bá C đã thừa nhận hành vi trộm cắp của chị Vừ Y K 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO NEO 7 sau đó bán lấy tiền tiêu xài.
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lỳ Bá C phạm tội “Trộm cắp tài sản”, áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự xử để xử phạt bị cáo Lỳ Bá C mức án từ 06 (Sáu) đến 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 (Mười hai) đến 18 (Mười tám) tháng. Ngoài ra còn đề nghị xem xét trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị hại và người đại diện cho người bị hại tại phiên tòa đề nghị được nhận lại chiếc điện thoại bị chiếm đoạt, ngoài ra không yêu cầu gì thêm.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Gia C là người đã mua lại chiếc điện thoại của Lỳ Bá C với số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) hiện nay anh Cường đã giao nộp chiếc điện thoại cho Cơ quan điều tra và không có yêu cầu gì thêm.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ tài liệu đã thu thập được có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xem xét tại phiên tòa nên đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 19 giờ ngày 30/5/2018 tại khối 4, thị trấn Mường Xén, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, bị cáo Lỳ Bá C đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Vừ Y K (trú tại bản PX, xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An) 01 (một) chiếc điện di động thoại nhãn hiệu OPPO NEO 7 giá trị 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Hành vi đó của bị cáo Lỳ Bá C đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017).
Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; Nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo Lỳ Bá C là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, hoang mang trong quần chúng nhân dân, hành vi đó đã vi phạm pháp luật hình sự nên cần phải xử lý nghiêm minh. Do đó cần tuyên phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, có như vậy mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng xem xét tới các tình tiết giảm nhẹ đó là bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, vì vậy cần cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
[3] Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, vì vậy chưa cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 để cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách, giao bị cáo cho gia đình và chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú quản lý và giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt.
[4] Về hình phạt bổ sung: Thấy bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có thu nhập ổn định, sinh sống ở vùng sâu, vùng xa nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[5] Đối với Lỳ Tồng C là người đã đi bán hộ chiếc điện thoại cho Lỳ Bá C, quá trình điều tra xác định Ca không biết chiếc điện thoại trên do Lỳ Bá C trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xử lý. Còn đối với Nguyễn Gia C, người mua lại chiếc điện thoại, quá trình điều tra xác định Cường không biết ngồn gốc chiếc điện thoại do trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xử lý.
[6] Về trách nhiệm dân sự đối với bị hại: Chị Vừ Y K đề nghị được nhận lại 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO NEO 7 đã bị chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, đây là tài sản hợp pháp của bị hại nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Gia C người đã mua chiếc điện thoại mà bị cáo đã trộm cắp của chị Vừ Y K. Hiện nay anh Cường đã giao nộp chiếc điện thoại cho Cơ quan điều tra và không có yêu cầu gì thêm vì vậy Tòa án không xém xét.
[8] Về vật chứng vụ án: 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO NEO 7 là tài sản hợp pháp của bị hại cần trả lại cho chủ sở hữu là chị Vừ Y K. Đố với số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) mà bị cáo có được từ việc bán chiếc điện thoại trộm cắp, đây là tiền thu lợi bất chính. Do bị cáo không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường nên số tiền này phải truy thu để nộp ngân sách Nhà nước
[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[10] Bị cáo Lỳ Bá C là người bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[11] Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Về tội danh và mức hình phạt: Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017): Tuyên bố bị cáo Lỳ Bá C phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Lỳ Bá C 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 15/11/2018).
Giao bị cáo Lỳ Bá C cho Ủy ban nhân dân xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị hại chị Vừ Y K (trú tại bản Phà Xắc, xã HT, huyện KS, tỉnh Nghệ An) 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO NEO 7, màu đen, IMEI 1: 863332033446279; IMEI 2: 863442033446261 máy cũ đã qua sử dụng. Vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng lập hồi 14 giờ 50 phút ngày 24/9/2018.
- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015: Truy thu của bị cáo Lỳ Bá C số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) là tiền do phạm tội mà có để sung vào ngân sách Nhà nước.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lỳ Bá C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên bố: Bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 15/11/2018). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc niêm yết./.
Bản án 114/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 114/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về