Bản án 113/2019/HS-PT ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 113/2019/HS-PT NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 72/2019/TLPT-HS, ngày 12/02/2019, đối với bị cáo Nguyễn Minh T, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HS-ST, ngày 09/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo: 

Họ và tên: Nguyễn Minh T - Sinh năm: 1984 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố D, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở trước khi bị bắt: Đường T, thị trấn E, huyện C, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V, sinh năm: 1950 và bà Vũ Thị Đ, sinh năm: 1958; bị cáo có vợ là Vy Thị Phúc H, sinh năm: 1989 và có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/9/2018, hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Minh T là đối tượng nghiện ma túy, loại Heroine. Vào khoảng 10h30’ ngày 26/9/2018, T một mình đi xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ đen bạc, biển số 47T1-035.xx, đi từ thị trấn E, huyện C, tỉnh Đắk Nông đến thành phố B, tỉnh Đắk Lắk với mục đích mua ma túy về sử dụng. Đến khoảng 11h30’ cùng ngày, T đi đến trước ngôi nhà (không rõ đặc điểm, số nhà) tại đường Y, phường T, thành phố B thì đập cửa rồi đưa vào khe cổng số tiền 600.000 đồng, một lúc sau người trong nhà đưa qua khe cổng cho T 03 gói giấy bạc màu trắng đều chứa ma túy. Sau khi mua được ma túy, T cầm số ma túy trong lòng bàn tay rồi điều khiểu xe mô tô về nhà. Khi T đi đến trước số nhà X, đường A, phường T, thành phố B thì bị Công an phường T, thành phố B phát hiện, bắt quả tang và thu giữ 03 gói giấy bạc chứa chất rắn màu trắng, theo T khai là ma túy loại Heroine và đã niêm phong theo quy định cùng 01 xe mô tô hiệu Honda Vision, màu đỏ đen bạc, biển số 47T1-035.xx.

Tại Bản kết luận giám định số: 857/GĐMT-PC09 ngày 01/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận: “Chất rắn màu trắng đựng trong 03 gói giấy bạc thu giữ của Nguyễn Minh T được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,3523 gam”.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 231/KLGĐ ngày 19/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: 01 xe mô tô Honda Vision, màu đỏ đen bạc, biển số 47T1-035.xx, trị giá 10.700.000 đồng.

Trong vụ án này còn có đối tượng bán ma túy cho T, nhưng chưa xác minh được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra đã tách hành vi của đối tượng này để điều tra làm rõ và xử lý sau.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HS-ST, ngày 09/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt Nguyễn Minh T 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, ngày 26/9/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/01/2019 bị cáo Nguyễn Minh T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Minh T vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên mức hình phạt 02 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, bởi lẽ bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và có nhân thân tốt nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh T, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 01 năm 06 tháng tù. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Nguyễn Minh T tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận: Vào khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 26/9/2018, tại khu vực đường A, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Nguyễn Minh T có hành vi cất giữ 03 gói giấy bạc chứa chất ma túy loại Heroin, có tổng khối lượng 0,3523 gam, mục đích để sử dụng, thì bị Công an phường T, thành phố B phát hiện, bắt quả tang và thu giữ. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, là có căn ứ pháp lý và đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt cho xã hội, hành vi này là nguyên nhân gây tổn hại cho sức khoẻ con người, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an chung của xã hội. Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, như vậy thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt và mới đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trong tình hình hiện nay. Mức hình phạt 02 năm tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, khi quyết định hình phạt bản án sơ thẩm cũng đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh T, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2019/HS-ST ngày 09/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh T 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 26/9/2018.

[2] Về án phí:

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2019/HS-PT ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:113/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về