Bản án 113/2017/HSST ngày 13/11/2017 ngày 13/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 113/2017/HSST NGÀY 13/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 97/2017/HSST ngày 18 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Bị cáo Hoàng Doãn B, sinh ngày 29/6/1990. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Khu phố K, thị trấn S, huyện S, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa:

12/12; dân tộc: Tày, quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: B1 (đã chết) và bà B2 (sinh năm 1961); có vợ là B3, sinh năm 1992. Tiền án, tiền sự sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/8/2017, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

Người bị hại: Ông K, sinh năm 1986. Trú tại: Đường 270 A, mã bưu chính số 2403 CT, thành phố P, Hà Lan.(A 270, 2403 CT, P, Holland.)Vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Hoàng Doãn B bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 20/8/2017, Hoàng Doãn B cùng Dương Hữu V, sinh năm 1980, trú tại thôn C – D, xã E, huyện S rủ nhau lên núi L thuộc thôn R 1, xã Q, huyện S, tỉnh Lạng Sơn để hái trộm măng về bán lấy tiền. Khi đi, B và V mỗi người mang theo một con dao và một bao tải dứa. V điều khiển máy cày của gia đình đi thẳng đến chân núi L và để xe tại đây. B và V lên hái măng dọc hai bên đường từ chân núi theo đường bậc thang lên trạm Vi Ba. Đến khoảng 17 giờ, B và V quay xuống mang theo số măng vừa hái trộm được, V vác bao măng đi trước, B cầm bao tải dứa đi theo sau. Trên đường xuống núi thì gặp ông K và một người phụ nữ đang đi ngược chiều lên đỉnh núi. Đi thêm khoảng 40m, V phát hiện 01 (một) chiếc ba lô để ở cạnh đường bên trái, hướng đỉnh núi đi xuống. V nói với B "Cái ba lô của ai đây", B nói không biết. V đi tiếp xuống núi, B quan sát xung quanh không thấy có người nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. B mở khóa ba lô ra thấy bên trong có đồ dùng cá nhân và 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Macbook – Pro màu trắng bạc và 01 (một) dây sạc máy tính. B lấy chiếc máy tính xách tay và dây sạc cho vào bao tải dứa rồi tiếp tục đi xuống núi (V đi trước nên không biết B đã lấy trộm tài sản). Đi được một đoạn, B thấy có một túi ni lông màu trắng, B nhặt lấy và cho bao tải dứa bên trong có chiếc máy tính xách tay vừa lấy trộm vào trong túi, rồi cất giấu vào bụi cây cạnh đường dưới chân núi, để đợi trời tối không có người qua lại B sẽ đến lấy đem đi bán lấy tiền chi tiêu cá nhân và mua ma túy về sử dụng. Cất giấu xong, B đi đến chỗ để máy cày rồi cùng V đi về nhà V. Khi về đến nhà V, V đem măng ra chợ bán cho một người không quen biết được 140.000đ (Một trăm bốn mươi nghìn đồng). Tối đói B ăn cơm và ngủ tại nhà V. Sau khi ăn xong, B đi xe đạp đến núi L để lấy chiếc máy tính, đến nơi B thấy có người, sợ bị lộ nên B quay lại nhà V mua bia về uống và mua ma túy của một người không quen biết về cùng V  sử dụng. Khoảng 12 giờ trưa ngày 21/8/2017, B đi xe khách đến Công ty Sam Sung tại Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên thăm vợ.

Ngày 22/8/2017, B được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S triệu tập đến trụ sở để làm việc. Tại Cơ quan điều tra, B đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp chiếc máy tính xách tay và dây sạc ngày 20/8/2017 tại núi L và chỉ chỗ cất dấu chiếc máy tính. Cơ quan điều tra Công an huyện S đã thu giữ toàn bộ vật chứng của vụ án.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 12 ngày 23/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện S kết luận: Chiếc máy tính xách tay hiệu Macbook-Pro có giá trị là 8.000.000đ (tám triệu đồng).

Chiếc máy tính xách tay hiệu Macbook-Pro và dây sạc máy tính mà Hoàng Doãn B trộm cắp đã được Cơ quan điều tra thu giữ và trả lại cho chủ sở hữu là ông K.

Đối với Dương Hữu V không được bàn bạc và tham gia cùng Hoàng Doãn B thực hiện hành vi trộm cắp chiếc máy tính xách tay nên Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý hình sự.

Đối với hành vi trộm cắp măng của Hoàng Doãn B và Dương Hữu V, do không xác định được B và V trộm cắp măng của ai và số tiền bán măng trị giá 140.000đồng(một trăm bốn mươi nghìn đồng), chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Tại bản Cáo trạng số 106/VKS-P3 ngày 17/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Doãn B về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 Bộ Luật Hình sự

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Doãn B đã thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân và xin tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Doãn B từ 12 – 15 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản đầy đủ không yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy các vật dụng cũ nát không còn giá trị sử dụng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu khác có trong  hồ  sơ vụ  án.  Vì  vậy có  đủ  căn  cứ  để  kết  luận:  Khoảng  17  giờ  ngày 20/8/2017, sau khi hái trộm măng trên núi L thuộc thôn R 1, xã Q, huyện S, tỉnh Lạng Sơn, trên đường xuống núi Hoàng Doãn B đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 (một) máy tính xách tay màu bạc nhãn hiệu Macbook – Pro và 01 (một) dây sạc máy tính đã qua sử dụng của ông K trị giá 8.000.000đồng (tám triệu đồng). Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo về tội "Trộm cắp tài sản" được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, không oan. Hành phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương. Đặc biệt là ảnh hưởng xấu đến hình ảnh con người Việt Nam trước khách du lịch Quốc tế nói chung và làm ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch, phát triển kinh tế tại địa phương của tỉnh Lạng Sơn nói riêng. Bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, nên bị cáo đã cố ý thực hiện  tội phạm. Do đó, khi lượng hình cần có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, cần phải xử tù giam để cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Để cá thể hóa hình phạt, cần xem xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Bị cáo là người có nhân thân không tốt. Ngày 09/9/2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 06 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản, đến ngày 12/3/2015 đã chấp hành xong, lần phạm tội này bị cáo đã được xóa án tích cho nên bị cáo không có tiền án.

Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối hận, do đó cần áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông K đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm (Bút lục số 44) nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01(một) bao tải dứa đã cũ và 01 (một) túi ni lông màu trắng đã cũ, rách.

Xét đề nghị của Đại diện viện kiểm sát thấy rằng, đề nghị về mức hình phạt có phần nhẹ chưa đảm bảo đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương nên không được chấp nhận; đề nghị về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng là có căn cứ nên cần chấp nhận.

Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt: Tuyên bố bị cáo Hoàng Doãn B phạm tội "Trộm cắp tài sản".Áp dụng khoản 1 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 Xử phạt bị cáo Hoàng Doãn B 18 (mười tám) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 23/8/2017.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 41 của Bộ luật hình sự; điểm đ khoản 2 Điều 76 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2003; Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bao tải dứa đã cũ và 01 (một) túi ni lông màu trắng đã cũ, rách.

(Các vật chứng được ghi chi tiết tại B bản giao nhận vật chứng ngày 11/10/2017 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn và Cục thi hành án dân sự tỉnh Lạng Sơn).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Hoàng Doãn B phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt bị hại. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án xử vắng mặt./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 113/2017/HSST ngày 13/11/2017 ngày 13/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:113/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về