Bản án 112/2020/HSST ngày 27/10/2020 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 112/2020/HSST NGÀY 27/10/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 27 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 133/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 119/2020/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Lưu Thị Th, 1962 tại tỉnh Th Hóa.

HKTT: thôn N, xã N, huyện T, tỉnh Th Hóa.

Nơi cư trú: ấp Tr, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không Trình độ học vấn: 03/12. Nghề nghiệp: Buôn bán.

Con ông Lưu Xuân Y(đã chết) và bà Trần Thị L (đã chết).

Bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ 03 trong gia đình.

Bị cáo có chồng là Lê Th T, sinh năm 1960 và 04 người con, con lớn sinh năm 1983, con nhỏ sinh năm 1991.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị can bị tạm giữ từ ngày 12/4/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Chị Nông Thị L, sinh năm 2000; Địa chỉ: thôn 10, xã X, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

Chị Nguyễn Thị Nh, sinh năm 2001; Địa chỉ: thôn Q, xã B, huyện M, tỉnh Điện Biên.

Chị Nguyễn Thị Thúy K, sinh năm 1999; Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Tháp.

Anh Hoàng Văn Th, sinh năm 1998; Địa chỉ: xóm B, xã T, huyện Ph, tỉnh Cao Bằng.

- Người làm chứng:

Ông Lê Th T, sinh năm 1960; Địa chỉ: ấp Trấu, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

Anh Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1989; Địa chỉ: ấp T, xã A, huyện T, tỉnh An Giang.

(Bị cáo có mặt, người làm chứng anh T có mắt, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị L, chị N, chị K, anh T và người làm chứng anh Tr vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 11 tháng 4 năm 2020, Hoàng Văn Th, sinh năm 1998, ngụ tại xã T, huyện Ph, tỉnh Cao Bằng đến quán cà phê không tên của Lưu Thị Th thuộc ấp Tr, xã Ph, huyện N tỉnh Đồng Nai để mua dâm. T đi vào ngồi trong chòi lá số 05, L là nhân viên của quán đi vào chòi ngồi nói chuyện với T và thỏa thuận giá mua bán dâm 40 phút là 400.000 đồng, T đồng ý. L đi vào trong báo cho Th biết là T đồng ý mua dâm với giá 400.000 đồng, sau đó L quay lại chòi lá số 05 thực hiện hành vi quan hệ tình dục với T thì bị Công an xã Ph bắt quả tang việc mua bán dâm và chuyển đến Cơ quan CSĐT Công an huyện N để điều tra theo thẩm quyền. T chưa đưa tiền cho L.

Vật chứng thu giữ: 01 bao cao su đã qua sử dụng; 01 cuốn sổ tay và số tiền 900.000 đồng của Lưu Thị Th; Số tiền 400.000 đồng của Nguyễn Thúy K; Số tiền 400.000 đồng của Nông Thị L và số tiền 100.000 đồng của Nguyễn Thị Nh.

Ngày 20 tháng 4 năm 2020, Cơ quan điều tra Công an huyện N đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo đối với Lưu Thị Th để điều tra.

Quá trình điều tra Lưu Thị Th khai nhận: Vào ngày 24 tháng 02 năm 2020, Th đến ấp Tr, xã Ph, huyện N thuê đất của anh Trần Trọng Cường, sinh năm 1982, ngụ tại ấp Tr, xã Ph, huyện N, tỉnh Đồng Nai để mở quán cà phê không có tên, nhằm thu hút khách, Th đã tuyển các nhân viên Nông Thị L; Nguyễn Thị Nh (tên gọi khác Q), và Nguyễn Thúy K làm nhân viên phục vụ bán cà phê, nước giải khát cho khách. Đến ngày 24 tháng 03 năm 2020, Th bắt đầu cho phép các nhân viên trong quán của Th bán dâm và kích dục cho khách. Cách thức mua bán dâm cho khách là khi khách vào trong quán các nhân viên theo thứ tự đến ca sẽ ra tiếp khách và hỏi khách có nhu cầu mát xa kích dục hay mua dâm hay không, giá mua dâm do Th và các nhân viên thỏa thuận với khách là nếu khách muốn quan hệ tình dục 20 phút giá là 200.000 đồng/01 lần, 40 phút giá là 400.000 đồng/01 lần, 60 phút giá là 500.000 đồng/01 lần. Nếu chỉ kích dục thì giá là 200.000 đồng/01 lần. Th và các nhân viên thỏa thuận nếu chỉ kích dục thì Th sẽ lấy toàn bộ số tiền khách trả, nếu bán dâm thì số tiền chia đều cho Th và nhân viên trực tiếp bán dâm. Sau khi thỏa thuận giá cả với khách xong các nhân viên sẽ vào báo lại cho Th biết, Th đồng ý thì các nhân viên mới được phép bán dâm và Th sẽ ghi số giờ bán dâm vào một cuốn sổ học sinh để thu tiền và canh giờ bán dâm. Đến khoảng 23 giờ ngày 11 tháng 4 năm 2020, Khi T và L đang thực hiện hành vi quan hệ tình dục thì bị Công an xã Ph bắt quả tang.

Ngoài ra, ngày 10 tháng 4 năm 2020, Th cho Nông Thị L bán dâm 01 lần cho 01 khách nam (không rõ họ tên) được số tiền 400.000 đồng. L đưa cho Th 200.000 đồng Th cho Nguyễn Thị Nh bán dâm 01 lần cho 01 khách nam (không rõ họ tên) được số tiền 400.000 đồng. N đưa cho Th 200.000 đồng. ngày 11 tháng 4 năm 2020, Th còn cho L bán dâm 01 lần cho 01 khách nam (không rõ họ tên) được số tiền 400.000 đồng. L đưa cho Th 200.000 đồng; Cho Nguyễn Thúy K bán dâm 01 lần cho 01 khách nam (không rõ họ tên) được số tiền 400.000 đồng. K đưa cho Th 200.000 đồng; Cho Nguyễn Thị Nh kích dục cho khách 01 lần và Nguyễn Thúy K kích dục cho khách 02 lần thu lợi bất chính số tiền 300.000 đồng.

Tổng số tiền Th thu lợi bất chính từ việc cho nhân viên bán dâm và kích dục cho khách từ ngày 24 tháng 3 năm 2020 đến ngày 11 tháng 4 năm 2020 là 39.500.000 đồng (ba mươi chín triệu năm trăm nghìn đồng). Trong quá trình Tòa án chuẩn bị xét xử bị cáo Th đã tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chinh là 20.000.000 đồng.

Đối với Hoàng Văn Th có hành vi mua dâm. Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã ra Quyết định xử lý hành chính theo quy định.

Đối với Nông Thị L, Nguyễn Thúy K và Nguyễn Thị Nh có hành vi bán dâm và kích dục cho khách. Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã ra Quyết định xử lý hành chính theo quy định.

Tại bản cáo trạng số 127/CT-VKS-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Lưu Thị Th về tội “Chứa mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung truy tố tại bản cáo trạng và phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị căn cứ điểm c khoản 2 Điều 327, điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung 2017) xử phạt bị cáo Lưu Thi Th dưới mức thấp nhất của khung hình phạt từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù.

Vật chứng thu giữ:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 cuốn sổ tay (loại 160 trang, hiệu MS: 3637, bên ngoài có ghi dòng chữ sổ nhật ký 2PM) của Lưu Thị Th.

Đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền thu lợi bất chính là 39.500.000 đồng của bị cáo Th, được trừ vào số tiền 900.000 đồng đã thu giữ của bị cáo Th và số tiền 20.000.000 đồng của bị cáo Th đã tự nguyện giao nộp trong quá trình Tòa án chuẩn bị xét xử.

Đề nghị tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền thu lợi bất chính: 400.000 đồng của đã thu giữ Nguyễn Thúy K; 400.000 đồng đã thu giữ của Nông Thị L và 100.000 đồng đã thu giữ của Nguyễn Thị Nh.

- Bị cáo Lưu Thị Th không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu, bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố; Hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[1.2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng:

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt, tuy nhiên đã có lời khai trong quá trình điều tra, không ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu được và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và đúng như hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra trước tòa, cho thấy bị cáo đã có hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 11 tháng 4 năm 2020, tại quán cà phê không tên do Lưu Thị Th làm chủ thuộc ấp Tr, xã Ph, huyện N tỉnh Đồng Nai. Khi Lưu Thị Th đang cho nhân viên của quán là Nông Thị L bán dâm cho anh Hoàng Văn Th thì bị Công an xã Ph, huyện N bắt quả tang và chuyển đến Cơ quan CSĐT Công an huyện N để điều tra theo thẩm quyền.

Như vậy, đã có đủ căn cứ để xác định hành vi của bị cáo Lưu Thị Th đã phạm tội “Chứa mại dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đạo đức danh dự, nhân phẩm, sức khỏe của người phụ nữ được pháp luật bảo vệ, gây dư luận xấu trong cộng động dân cư, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội với tình tiết định khung hình phạt là “phạm tội 02 lần trở lên” nên cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội.

Tình tiết tăng nặng: Không.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lưu Thị Th thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo Th có cha ruột là Liệt sỹ, bà nội ruột được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình bị cáo có truyền thống cách mạng, bị cáo có nhân thân tốt, là lao động chính trong gia đình được chính quyền địa phương xác nhận và trong quá trình Tòa án chuẩn bị xét xử bị cáo Th đã tự nguyện giao nộp một phần số tiền thu lợi bất chính là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét trách nhiệm hình cho bị cáo và cũng để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước.

Đối với Hoàng Văn Th có hành vi mua dâm. Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã ra Quyết định xử lý hành chính là phù hợp với quy định pháp luật.

Đối với Nông Thị L, Nguyễn Thúy K và Nguyễn Thị Nh có hành vi bán dâm và kích dục cho khách. Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã ra Quyết định xử lý hành chính là phù hợp với quy định pháp luật

[4] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền bị cáo Th đã thu lợi bất chính là 39.500.000 đồng, được trừ vào số tiền 900.000 đồng đã thu giữ của bị cáo Th và số tiền 20.000.000 đồng của bị cáo Th đã tự nguyện giao nộp trong quá trình Tòa án chuẩn bị xét xử.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền thu lợi bất chính số tiền: 400.000 đồng đã thu giữ Nguyễn Thúy K; 400.000 đồng đã thu giữ của Nông Thị L và 100.000 đồng đã thu giữ của Nguyễn Thị Nh.

Đối với 01 cuốn sổ tay (loại 160 trang, hiệu MS: 3637, bên ngoài có ghi dòng chữ sổ nhật ký 2PM) của Lưu Thị Th là tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo Th nên lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[5] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[6] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử về tội phạm, hình phạt và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo Th nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 38; điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tuyên bố: Bị cáo Lưu Thị Th phạm tội: “Chứa mại dâm”.

- Xử phạt: Bị cáo Lưu Thị Th 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 4 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 bao cao su đã qua sử dụng theo biên bản giao nhận vật chứng đề ngày 09 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền bị cáo Th đã thu lợi bất chính là 39.500.000 đồng, được trừ vào số tiền 900.000 đồng đã thu giữ của bị cáo Th theo biên lai thu số 001155 ngày 09 tháng 10 năm 2020 và số tiền 20.000.000 đồng của bị cáo Th đã nộp theo biên lai thu số 001161 ngày 16 tháng 10 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện N. Buộc bị cáo Th nộp sung ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bắt chính còn lại là 18.600.000 đồng.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền thu lợi bất chính: 400.000 đồng đã thu giữ Nguyễn Thúy K; 400.000 đồng đã thu giữ của Nông Thị L và 100.000 đồng đã thu giữ của Nguyễn Thị Nh theo biên lai thu số 001155 ngày 09 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

305
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 112/2020/HSST ngày 27/10/2020 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:112/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về